Vũ Ngọc Phan và cái “hậu” của thế kỷ 20
Từ những năm mở đầu thập niên 60 thế kỷ trước, ở địa chỉ 20 Lý Thái Tổ, trụ sở của Viện Văn học, trên cương vị Tổ trưởng Tổ Cổ-Cận-Dân, rồi Tổ Văn học Dân gian được tách ra, Vũ Ngọc Phan đã có ở phía sau mình ngót 30 năm hoạt động nghề nghiệp – là người viết báo, rồi làm thư ký tòa soạn, hoặc chủ bút báo; là dịch giả Tiểu Nhiên Mị Cơ (phóng tác theo truyền thuyết Tristan Et Yseult ) và Anna Kha Lệ Ninh (Anna Catherina của Lev Tolstoi); là tác giả bộ sách lớn Nhà văn hiện đại 4 quyển, 5 tập; là tác giả bộ sách lớn Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam vừa bắt đầu được khởi thảo…
Do vốn kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp phong phú, do trí nhớ mẫn tiệp, cuối đời, lẽ tự nhiên, ông còn tiếp tục mở rộng diện hoạt động của mình sang lĩnh vực hồi ký văn học…
Một cuộc đời với trên dưới 60 năm hoạt động không mỏi mệt trên nhiều lĩnh vực, ở mỗi lĩnh vực đều có đóng góp; và sự nghiệp để lại, nếu như tính toán cho thật triệt để theo sự thanh lọc của thời gian, mà vẫn còn để lại được, với dấu ấn khá đậm, ở phần nửa đầu thế kỷ là bộ sách Nhà văn hiện đại đồ sộ, và phần nửa sau thế kỷ là Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam được tái bản đến lần thứ mười hai.
Một cuộc đời như vậy rất đáng cho chúng ta kính trọng, và một sự nghiệp như vậy rất đáng cho chúng ta biết ơn. Tôi thấy cần nhấn mạnh thêm về vị trí mở đầu của hai bộ sách mà tác giả là người khai phá, và là một mở đầu rất đặc biệt, vì tầm vóc lớn của nó, vì khả năng tổng hợp của nó, qua đó thấy tác giả không chỉ là người gắn bó, tâm huyết với nghề, mà còn là người có tác phong chu đáo, cẩn trọng và có trách nhiệm rất cao với nghề.
Khoảng trên dưới 20 năm gần đây, khi chủ trì một số công trình về văn học Việt Nam hiện đại, khi hướng dẫn và chấm các luận án tiến sĩ, thạc sĩ về lý luận văn học và văn học hiện đại, tôi luôn luôn nhắc nhở, nhấn mạnh bộ sách Nhà văn hiện đại là tài liệu không được phép thiếu trong các thư mục nghiên cứu của các học viên; và những ý kiến, nhận xét, đánh giá của Vũ Ngọc Phan về một tác giả nào đấy luôn luôn là cơ sở, là điểm tựa cho sự phát triển hoặc điều chỉnh các luận điểm của công trình và luận án. Và tôi nghĩ, ở hiện tượng này, giá trị khoa học trong công trình của Vũ Ngọc Phan đang không ngừng được mở rộng…
Cuối cùng, cho phép tôi chia sẻ một chút rưng rưng cảm động và sung sướng về cái hậu của thế kỷ (thế kỷ 20), đó là thành tựu của công cuộc đổi mới trong lĩnh vực văn chương – học thuật.
Viện Văn học được thành lập vào đầu năm 1959, cho đến trước đổi mới, những người lãnh đạo và lực lượng cốt cán của Viện phải luôn luôn giữ vững lập trường, quan điểm của Đảng trên các vấn đề lớn của văn chương – học thuật.
Từ yêu cầu đó, chúng tôi hiểu vì sao, Hoài Thanh, trong sự nghiệp viết sau năm 1945 của mình, luôn luôn trở đi trở lại sự phê phán trào lưu văn học lãng mạn và phong trào Thơ mới, và tự phê bình thật gay gắt cuốn Thi nhân Việt Nam. Trong nhiều lý do được ông trình bày, có một lý do, theo ông là “thảm hại nhất” đó là, trong lời nói đầu của sách, ông đã trích dẫn và ca ngợi câu nói của Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn“…
Người khai sinh nền tiểu thuyết mới và trào lưu lãng mạn trong văn xuôi là Hoàng Ngọc Phách cho đến khi qua đời, chưa một lần nói đến giá trị cuốn Tô Tâm của mình.
Còn Vũ Ngọc Phan, đã dứt khoát thôi hẳn sự gắn bó với các “nhà văn hiện đại”, là những người đồng thời hoặc là tiền bối của ông, trong đó, ông chẳng để sót một gương mặt lãng mạn nào, kể từ Nhất Linh, Khái Hưng… đến Vũ Hoàng Chương không những thế, còn phải đi ngược lên vị trí những người khai mạc nền văn chương – học thuật quốc ngữ, như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim…
Còn nhớ, những tên tuổi tôi vừa dẫn ở trên, tất cả đều là đích ngắm, hoặc trong tầm ngắm của giới phê bình – nghiên cứu văn học một thời.
Mãi sau này tôi mới cảm nhận và giải thích được một ít cái lặng lẽ, và lủi thủi của một lớp người sáng danh đã kể trên trong dàn cán bộ lão thành của Viện Văn học.
Năm 1961, trong sách Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ 20, Đặng Thai Mai có đoạn viết về Phạm Quỳnh “tiên sinh kính trắng” như “là một người đã đọc khá nhiều sách và đã đem học thức ra bán rẻ cho bọn thống trị, là một nhà “học giả” có đủ chữ Hán và tiếng Việt để kịp người Tây, và cũng có đủ chữ Tây để lòe người “An nam”. 24 năm sau, trong hồi ký ông vẫn tiếp tục nhận định trên nhưng có thêm một ý ngắn: “Cụ Bùi hồi này (túc Bùi Kỷ), cùng với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh là ba nhà trí thức cỡ lớn của thủ đô“.
Hoài Thanh trước khi mất, năm 1982, nói với con là Từ Sơn: “Cha biết văn chương của cha cũng chỉ vầy vậy thôi. Nếu không có cuốn Thi nhân Việt Nam thì đã không chắc gì người ta công nhận cha thực sự là một nhà văn“.
Còn Vũ Ngọc Phan, ông không có một cuộc “tự kiểm thảo” nào, bởi ông đã chuyển niềm say mê nghề nghiệp sang cổ tích, tục ngữ, ca dao, dân ca… Với văn học hiện đại, ông chuyển sang viết hồi ký. Mãi đến 1989, hai năm sau ngày ông qua đời, tác phẩm Nhà văn hiện đại, mới được tái bản lần đầu.
Vũ Ngọc Phan mất giữa năm 1987, tức là ông vẫn chưa được hưởng một chút thư thái, an nhàn nào trong sinh hoạt vật chất vốn rất khó khăn đối với cả dân tộc chúng ta hồi ấy. Ông cũng chưa được hưởng một sự cởi mở trong sinh hoạt tinh thần để thấy giá trị nguyên vẹn về mặt khoa học của số lớn những gì ông đã viết trong Nhà văn hiện đại.