Vài nét về nhà văn Vũ Ngọc Phan
(Toquoc)- Những đóng góp cho khoa nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam hiện đại và văn học dân gian Việt Nam khiến tên tuổi của ông xứng đáng với sự vinh danh cao quý. Năm 1996, Vũ Ngọc Phan được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho những công trình biên soạn về văn học dân gian tiêu biểu của ông.
Vũ Ngọc Phan là nhà nghiên cứu, phê bình văn học, dịch giả. Tên thật và cũng là bút danh chính, ngoài ra ông còn có bút danh Chỉ Qua Thị. Ông sinh ngày 8/9/1902. Mất ngày 14/6/1987. Quê quán: làng Đông Cảo huyện Gia Bình nay là xã Đông Cửu, huyện Gia Lương tỉnh Bắc Ninh.
Thuở nhỏ học chữ Hán rồi chuyển qua chữ Pháp. Sau khi đỗ Tú tài (1929), ông vừa đi dạy học tư ở Hà Nội, vừa làm báo, viết văn, dịch sách văn học. Cộng tác với các báo Nhật Tân, Trung Bắc tân văn, Pháp Việt, Văn học,Trung Bắc chủ nhật, Sông Hương, Công luận… Chủ trương tờ tuần báo Hà Nội tân văn (1939-1940) và nhà xuất bản Hà Nội. Ngoài viết hàng trăm bài báo, ông đã dịch, phóng tác nhiều truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết từ tiếng Anh và tiếng Pháp, đồng thời biên soạn sách nghiên cứu phê bình, viết bút ký.
Các tác phẩm chính được xuất bản trước Cách mạng tháng 8/1945 : Trên đường nghệ thuật (tiểu luận, 1940), Thi sĩ Trung Nam (thi thoại, 1942) Nhìn sang láng giềng (bút ký,1941), Chuyện Hà Nội (bút ký, 1944). Đặc biệt với tâm huyết và trách nhiệm của người cầm bút nặng lòng dân tộc, yêu nước ông bền bỉ, kiên trì hoàn thành bộ sách Nhà văn hiện đại (Phê bình văn học) gồm 4 quyển. Sách dày hơn 1000 trang, in rải ra trong 4 năm mới xong, do nhà xuất bản Tân Dân ấn hành. Bằng phương pháp mới mẻ tiếp thu từ khoa nghiên cứu văn học phương Tây, ông tập trung khảo sát kỹ lưỡng trên văn bản tác phẩm, đưa ra những ý kiến nhận xét về giá trị nội dung, nghệ thuật, vị trí của 79 nhà văn Việt Nam hiện đại viết bằng chữ quốc ngữ thuộc các thể loại: thơ, tiểu thuyết, ký, khảo cứu phê bình, kể từ những nhà văn viết hồi mới có chữ quốc ngữ đến những tác giả mới xuất hiện từ đầu thập kỷ 40. Công trình cũng mang dáng dấp của một bộ văn học sử về một chặng đường của văn học Việt Nam giai đoạn từ cận đại chuyến sang hiện đại và phát triển mạnh mẽ từ những năm 30 của thế kỷ XX. Ông có nhiều nhận xét tinh tường và xác đáng về đặc sắc tư duy, bút pháp của từng nhà văn cùng tạng văn của mỗi cây bút, dự đoán về con đường phía trước của họ. Cuốn sách, qua thời gian, vẫn luôn thu hút sự tìm đọc của công chúng, bởi chúng giúp họ nhận chân diện mạo và đội ngũ tác giả của nền văn học Việt Nam hiện đại non trẻ cùng bút lực phê bình dồi dào, tư duy khoa học minh triết của Vũ Ngọc Phan.
Sau Cách mạng tháng 8, Vũ Ngọc Phan đi kháng chiến, viết cho Tạp chí Tiền Phong, tham gia Đoàn văn hóa kháng chiến khu IV, rồi hoạt động trong Hội văn nghệ Việt Nam. Từ 1954 đến khi mất, ông chuyên tâm làm nghiên cứu văn học trong Ban Văn – Sử – Địa rồi Viện Văn học. Từng là Tổng thư ký kiêm Phó Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
Thành tựu nổi bật của Vũ Ngọc Phan ở chặng đường sau thuộc về lĩnh vực sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian. Ông cho xuất bản các công trình lớn như Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (1956, gần 1000 trang, cho đến nay được tái bản 14 lần); Truyện cổ Việt Nam (1955) rồi Truyện cổ dân gian các dân tộc Việt Nam (chủ biên, 1961), Hợp tuyển văn học Việt Nam (chủ biên, 1972). Các bài nghiên cứu phê bình chủ yếu về văn học dân gian Việt Nam đăng trên báo và tạp chí hồi này được tập hợp vào cuốn Qua những trang văn ( 1976). Trước khi mất ông kịp hoàn thành cuốn Hồi ký, xuất bản cuối năm 1987.
Trong gần 60 năm đeo đuổi nghiệp văn, Vũ Ngọc Phan đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ về sáng tác, dịch thuật, đặc biệt về nghiên cứu, phê bình văn học. Ông là người có công đưa ngành phê bình văn học non trẻ ở Việt Nam đầu thế kỷ XX lên đỉnh cao, kết hợp được tính khoa học và tính nghệ thuật, cũng là người đầu tiên áp dụng cách phân loại các thể loại văn học dân gian một cách hệ thống, với tiêu chí rõ ràng và khoa học. Thuật ngữ văn học dân gian do ông đưa ra sử dụng, được đồng nghiệp chuyên ngành chấp nhận, thay cho các thuật ngữ văn học bình dân, văn chương truyền khẩu trước đó.
Phần chủ yếu trong di sản học thuật của Vũ Ngọc Phan đã được đưa vào Vũ Ngọc Phan – Tác phẩm (5 tập, 4538 trang. Nxb Hội Nhà văn, 2000) và Vũ Ngọc Phan – Tác phẩm chọn lọc (4 tập, 3052 trang. Nxb Văn học, 2008).
Nguyễn Ngọc Thiện