Tô Ngọc Vân – Tiểu Sử Cuộc Đời, Sự Nghiệp & Tác Phẩm – Kiệt Tác Nghệ Thuật
Tiểu Sử Cuộc Đời – Hoạ Sĩ Tô Ngọc Vân Là Ai?
Tô Ngọc Vân sinh ra tại Hà Nội trên phố Hàng Quạt vào ngày 15 tháng 12 năm 1906. Cha là Tô Văn Phú và mẹ là Nguyễn Thị Nhớn. Gia đình nội của ông là tiểu tư sản thành thị, trong khi gia đình ngoại nghèo của ông xuất thân từ các nhà Nho học buôn bán nhỏ. Xuất thân từ một gia đình nghèo, Ngọc Vân phải đi làm từ khi còn nhỏ. Từ sáu tuổi trở đi, ông sống như một đứa con nuôi trong gia đình của bà nội và dì của ông vì gia đình ông rất nghèo khó. Ông bị đối xử tồi tệ và chỉ được phép gặp bố mẹ vài lần trong năm.
Sau khi học xong năm học thứ 3 tại trường THCS Bưởi ( Bưởi Trung Học Cơ Sở ), Tô Ngọc Vân nghỉ học và bắt đầu học vẽ để chuẩn bị thi vào trường mỹ thuật. Sau vài tháng đào tạo tại lớp dự bị, ông thi đậu vào trường École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine , vào khóa văn bằng thứ hai từ năm 1926 đến năm 1931. Ngọc Vân là người được điểm cao nhất trong lớp cho kỳ thi cuối kỳ.
Sự Nghiệp Của Hoạ Sĩ Tô Ngọc Vân
Để bắt đầu, Tô Ngọc Vân đã gặp khó khăn trong việc tồn tại với tư cách là một họa sĩ và phải đi học vẽ cá nhân cũng như làm việc cho các tạp chí và báo như Nhân Loại , Phong Hóa , Ngày Nay và Thanh Nghị . Ông viết dưới bút hiệu Ái Mỹ. Các bút danh khác mà ông sử dụng là Tô Văn Xuân và Tô Tử.
Năm 1931, Ngọc Vân đoạt huy chương bạc tại cuộc triển lãm thuộc địa ở Paris cho bức tranh sơn dầu Lá thư (A letter). Năm 1932, ông nhận được giải thưởng danh dự tại cuộc triển lãm của các họa sĩ Pháp. Khi kỹ năng của ông cuối cùng đã được công nhận vào đầu những năm 30, ông đã có thể kiếm sống bền vững bằng nghề họa sĩ.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1932, họa sĩ Tô Ngọc Vân đã kết hôn với Nguyễn Thị Hoàn – người vợ đầu tiên của ông – và ông có năm người con. Năm 1933, ông trở thành thành viên của hiệp hội nghệ sĩ Pháp. Cùng năm, ông được vua Bảo Đại mời vào cung khai sơn ở Huế . Năm 1935, ông đã giành được giải thưởng tại Société Annamite D’Encouragement à l’Art et à l’Industrie (Hiệp hội khuyến khích nghệ thuật và công nghiệp An Nam (SADEAI)). Trong những năm đó, trang bị giá vẽ gấp và ống sơn, ông đã đi khắp các vùng quê gần Hà Nội để cố gắng tái hiện vẻ đẹp và sự đa dạng của nó.
Từ năm 1935 đến năm 1938, họa sĩ Tô Ngọc Vân dạy tại trường Sisowath ở Campuchia và vẽ ở Phnom Penh. Từ năm 1938 đến năm 1939, ông giảng dạy tại Trường Trung học cơ sở Bưởi – ngôi trường thời thơ ấu của ông. Từ năm 1939, ông dạy vẽ tại École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine, sau đó trở thành giáo viên chính thức và giáo sư tại trường cao đẳng nghệ thuật.
Năm 1943, họa sĩ Tô Ngọc Vân tham gia nhóm Foyer de l’Art Annamite ( Home of Annamite ART ) (FARTA)) và cũng viết về nghệ thuật cho báo Hà Nội . Năm 1945, sau cách mạng, ông đã làm hai tấm áp phích lớn. Năm 1946, ông vẽ tranh chân dung Hồ Chí Minh và được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam mới . Năm 1944, khi trường cao đẳng chuyển đến Sơn Tây sau trận chiến đấu ác liệt, ông đã tổ chức một cuộc triển lãm các tác phẩm của sinh viên cùng với Joseph Inguimberty tại Nhà Thông tin trên phố Tràng Tiền. Một năm sau, ông rời Hà Nội đến Bát Tràng.
Năm 1946, họa sĩ Tô Ngọc Vân tham gia Đội Tuyên truyền Việt Bắc , làm áp phích, khẩu hiệu trên tường. Sau đó anh ấy tham gia vào nhóm sân khấu “August”, trang điểm và đóng các vai phụ trên sân khấu. Năm 1947, ông trở thành Tổ trưởng Tổ văn nghệ vì lợi ích dân tộc ở Quân khu 10.
Năm 1948, họa sĩ Tô Ngọc Vân làm trưởng đoàn văn công kháng chiến ở Vĩnh Chânh, tỉnh An Giang. Sau đó ông trở thành giám đốc xưởng sơn mài và thành lập tờ báo văn học nghệ thuật, viết nhiều bài báo. Cùng năm đó, ông tham gia Đại hội Văn học Nghệ thuật Quốc gia, đã tranh luận sôi nổi với Tổng Bí thư Trường Chinh về chủ đề tranh tuyên truyền có được coi là tác phẩm nghệ thuật độc bản hay không. Những cuộc tranh luận này đã làm nổi bật sự chấp nhận một cách thờ ơ của ông đối với các nguyên tắc của lý tưởng cách mạng và chủ nghĩa hiện thực xã hội trong nghệ thuật.
Năm 1949, họa sĩ Tô Ngọc Vân theo Trung đoàn Thủ đô để vẽ tranh nghệ thuật hoạt động trong ba tháng. Ông cũng cải thiện quan hệ với chính phủ bằng những bức tranh. Về nước năm 1950, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trung ương tại tỉnh Phú Thọ. Một năm sau, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam tại Hà Nội .
Họa sĩ Tô Ngọc Vân tham gia chiến dịch Biên giới và giải phóng Lào Cai năm 1950. Năm 1952, ông tham gia chiến dịch tăng cường sản xuất và kinh tế bằng cách vẽ thêm tranh chân dung Hồ Chí Minh và sử dụng một đề tài mới – họa sĩ trường phái ấn tượng nổi tiếng người Pháp, Henri -Jean Guillaume Martin.
Năm 1953, họa sĩ Tô Ngọc Vân về sống tại làng Ninh Dân, tỉnh Phú Thọ. Ông sống với dân làng và vẽ những bức tranh nghệ thuật về cuộc đấu tranh chống lại địa chủ của họ. Năm 1954, ông thực hiện một loạt ký họa về đời sống nông dân.
Tháng 4 năm 1954, Tô Ngọc Vân được lệnh đi Điện Biên Phủ để vẽ ký họa về các hoạt động quân sự ở mặt trận, mô tả cuộc sống của binh lính và nhân dân Tây Bắc và Điện Biên Phủ. Ngày 17 tháng 6 năm 1954 ông hy sinh tại cây số 14 Bà Khẽ, vượt đèo Lũng Lô, khi đang thực hiện nhiệm vụ ký họa trực tiếp. Cái chết của anh ấy rất gần trận chiến, một đánh dấu một bước ngoặt của cuộc chiến, đã khiến ông trở thành một anh hùng dân tộc.
Tháng 11 năm đó, những bức tranh của ông thực hiện vào thời điểm đó đã được giải thưởng tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc .
Năm 1985, một đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh được đặt theo tên ông và đến năm 1995, một đường phố ở Hà Nội được đặt theo tên ông.
Triển lãm
- 1931 – Exposition Coloniale , Paris, Pháp
- 1932 – Triển lãm của Hiệp hội Họa sĩ Pháp, Paris, Pháp
- 1954 – trao giải tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc
- 1996 – Paris – Hanoi – Saigon : L’aventure de l’art moderne au Viêt Nam , Pavillon des Arts, Paris, France
- 2006 – Il drago e la Farfalla , Complesso del Vittoriano, Rome, Ý
- 2013 – Du Fleuve Rouge au Mékong , Bảo tàng Cernuschi, Paris, Pháp
Vai trò chính thức
- 1935 – 1938 – Học tại Trường Sisowath ở Campuchia
- 1939 – Bắt đầu giảng dạy tại École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine
- 1946 – Được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam mới
- 1947 – Trưởng đoàn văn công vì lợi ích dân tộc khu 10
- 1950 – Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trung ương tại Nghĩa Quân, Yên Phú
- 1951 – Được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam
Giải thưởng
- 1931 – Giành huy chương bạc tại Exposition Coloniale cho bức tranh sơn dầu Chữ A của ông, Paris, Pháp
- 1932 – Nhận giải thưởng danh dự tại triển lãm của các họa sĩ Pháp
- 1985 – Một đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh được đặt theo tên ông
- 1995 – Một con phố ở Hà Nội được đặt theo tên ông
Tác Phẩm Tranh Của Hoạ Sĩ Tô Ngọc Vân
Những người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận cho Tô Ngọc Vân. Đối với ông, những bức tranh mà ông vẽ không chỉ tái hiện những vẻ đẹp của hình thể mà còn tượng trưng cho những vẻ đẹp về quan niệm và cuộc sống. Tất cả đều được biến hóa linh hoạt diệu kỳ trong từng nét bút. Trong suốt quãng thời gian hoạt động sáng tạo nghệ thuật, ông đã để lại được rất nhiều tác phẩm ấn tượng. Và các tác phẩm nghệ thuật của ông được chia thành hai giai đoạn chính là từ trước những năm 1945 và sau năm 1945. Tất cả các tác phẩm mà ông để lại đều có những giá trị nhất định và tạo nên tiếng vang lớn cho nền hội họa Việt Nam.
Từ trước những năm 1945, các tác phẩm tiêu biểu của họa sĩ Tô Ngọc Vân như: Thiếu nữ bên hoa sen (1944), Thiếu nữ bên hoa huệ (1943), Hai thiếu nữ và em bé (1944), Thiếu phụ ngồi bên tranh tam đa (1942), Buổi trưa (1936), Bên hoa (1942). Tất cả các tác phẩm của ông trong thời gian này chủ yếu tập trung vào hình ảnh những người phụ nữ và đều là tranh sơn dầu.
Vào sau năm 1945, các tác phẩm tiêu biểu của họa sĩ Tô Ngọc Vân như: Hồ Chủ Tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ (1946), Nghỉ đêm bên đồi (1948), Con trâu quả thực (1954), Hai chiến sĩ (1949), Nghỉ chân bên đồi ( 1948), … Vào những năm này, tác phẩm của ông lại tập trung nhiều hơn để ký họa các hình ảnh kháng chiến thay vì những người phụ nữ như những năm trước kia. Tại thời điểm này, các tác phẩm của ông không chỉ còn là những bức tranh sơn dầu mà còn nhiều loại khác như tranh sơn mài, ký họa màu nước hay màu nước.
Tất cả các tác phẩm mà họa sĩ Tô Ngọc Vân để lại đều có những giá trị nhất định và tạo nên tiếng vang lớn cho nền hội họa Việt Nam.