Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại | Inrasara.com
(sửa lại vào ngày 19-1-2010)
THƠ VIỆT, TỪ HIỆN ĐẠI ĐẾN HẬU HIỆN ĐẠI
A. Khép lại…
1. Giải sân hận
Một thế kỉ thơ Việt, có lẽ bài “Tình già” (1932) của Phan Khôi và tập thơ Tôi không còn cô độc (1956) của Thanh Tâm Tuyền là quan trọng nhất. Quan trọng, bởi nó đóng vai trò bản lề mang tính xoay chuyển. Xoay chuyển cho mở ra những chân trời mới. Nhưng có thi tập hay bài thơ mang trong mình sự khép lại. Khép lại một lối viết, lối suy nghĩ, một thời đại thơ,… để mở ra khả tính mới, khác cho thơ. Làm thơ và đọc thơ. “Đi về” của Tô Thùy Yên là một.
Khuya rồi, nước đã đầy trăng,
Đi về suốt bãi sông Hằng, gặp ai?
Lạnh trời, đâu lửa hơ tay?
Đêm còn, cứ bãi sông này lại đi.
Thấy gì chăng, chẳng thấy gì,
Nước rào, trăng rạt, ta thì mỏi mê…
Chầy khuya, nước ủ trăng ê,
Uổng công, bãi ấy đi về một ta…
Mãi rồi trời cũng sáng ra,
Phần trăng trăng lặn, phần ta ta về.
Vẫn sông, vẫn bãi bốn bề,
Sang đêm, ai nữa đi về, gặp ai?(1)
Một tác phẩm văn chương, nếu nó không mang chở yếu tố thời cuộc của thời đại nhà văn sống, thì nó sẽ không nói được gì nhiều. Nhất là với lịch sử Việt Nam ở thế kỉ XX. Lịch sử của va chạm và xung đột khốc liệt giữa các ý thức hệ: phong kiến và tự do, thực dân xâm chiếm thuộc địa và phong trào giải phóng dân tộc, Đông phương và Tây phương, cộng sản và tư bản, dân chủ với độc tài, cá nhân với tập thể,… Suốt giai đoạn lịch sử dài, mảnh đất hình chữ S này trở thành sân khấu diễn tập của bao thí nghiệm và thử nghiệm: học thuyết chính trị – quân sự, tôn giáo – tư tưởng, văn học – nghệ thuật, vũ khí và cả… thơ ca.
Bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ.
Va chạm, xung đột và chiến tranh. Chiến tranh thì có kẻ/ bên khải hoàn chiến thắng. Nhưng – nói như Nguyễn Duy – dù kẻ/ bên nào chiến thắng, nhân dân đều bại. Nhà tư tưởng, triết gia và nhất là nhà thơ, kẻ nhạy cảm đồng thời ít trang bị vũ khí tự vệ nhất, chiến bại. Chiến bại, và chịu đựng hậu quả cùng muôn vàn hệ lụy của nó.
Thời sự của “Đi về” tuyệt không mang tính thông tấn báo chí. Nó không thông tin cái gì cả. Thi sĩ và cả người đọc đột ngột bị đẩy rơi vào trung tâm của sự thể, đối mặt và chịu đựng nỗi phi lí của sự thể ấy.
Một tù nhân của lịch sử, trong giá rét miền Bắc hay vùng miền nào đó trên tổ quốc Việt Nam, đang đi suốt bãi sông Hằng hay con sông nào đó trên trái đất bất kì, không quan trọng. Bài thơ đã không đưa thông báo cụ thể. Và chúng ta cũng không cần thông tin đó.
Đi – về, đi và về, vậy thôi. Đi hoài đi hủy. Đêm còn là ngươi còn đi. Cũng bãi sông đó, lối cũ đó. Lại đi. Không gặp ai, không cần gặp ai và, cũng chẳng có ai để gặp. Đi, để làm gì cũng chẳng biết. Hành hạ ư? Không chắc. Tác nhân – không biết. Bị nhân – không biết. Ngươi là kẻ thù, kẻ chiến bại, ngươi phải bị trả giá. Không phải bởi cá nhân hay con người nào đó. Mà bởi một cơ chế. Cơ chế không xem ngươi là cá nhân, một con người. Không có ngoại lệ hay biệt lệ ở đây. Ngươi là kẻ vừa bị cơ chế đánh bại, thế thôi. Cơ chế không cần biết ngươi nghĩ gì, đau thế nào, chết ra sao. Không gì cả!
Cơ chế vô tâm, đã đành. Cả thiên nhiên cũng vô tình.
Vũ trụ và thiên nhiên của Trần Tử Ngang hay Huy Cận mang chở yếu tính siêu hình, đưa con người giáp mặt với nỗi trống không, sự cô đơn và cái mong manh của sinh thể mang tên con người. Con người cảm nhận được và con người thấy hạnh phúc. Cả nỗi phi lí của kiếp phận Sisyphe, ông biết, ông học chấp nhận và hạnh phúc. Ở đây – không gì cả! Thi sĩ đối mặt vũ trụ, vừa siêu hình vừa hữu hình trong một thực tại lù lù. Lê thân xác mệt mỏi rã rời mà đi. Đi mãi. Cuộc đi vô cùng tận. Chẳng kẻ đồng hành để sẻ chia. Dứt kỉ niệm để hồi tưởng. Không tương lai để hi vọng.
Chỉ còn một ta đi và về giữa thiên nhiên vô tình với cơ chế vô tâm. Sức chịu đựng của con người gần như là không cùng.
Chịu đựng câm lặng. Suốt bài thơ không bật ra nửa lời trách oán. Than vãn – không. Căm hận hay nuôi ý định trả thù lại càng không. Vô lượng tâm mở ra cùng vô tình trời đất, và nghiệt ngã cơ chế. Càng mở hơn nữa với kẻ đến sau. Sang đêm, một thân phận khác sẽ đến, chắc chắn. Sẽ đối mặt với cảnh ngộ này, như ta. Để phải chịu đựng một lần và muôn ngàn lần nữa nỗi thống khổ phi lí to lớn này. Họ sẽ thế nào?
“Ai nữa đi về…”?
Giữa đêm tối của thời cuộc tưởng như không còn lối thoát ấy, qua sự chịu đựng nỗi khắc nghiệt gần như bất khả vượt ấy, những tưởng mọi tình người sót lại bị hủy diệt, mọi cánh cửa cảm thông sẽ đóng sầm. Mãi mãi. Nhưng không, thi sĩ vẫn biết vươn vượt khỏi phận mình, nhìn ra ngoài, ưu tư lo lắng đến sinh phận khác.
“Đi về” – mỗi câu thơ vọng như từ thẳm sâu cõi mộng và thực, ranh giới được và mất, sống và chết. Bài thơ chạm vào tận miền đáy đau khổ của con người. Mỗi tiếng, mỗi âm run rẩy, như thể đẩy ta ra xa đồng lúc vẫy gọi gần. Gần lại với thân phận con người hơn. “Đi về” là bài thơ lớn, bằng trải nghiệm lớn qua giao cảm lớn. Nó mang ở tự thân tinh thần giải sân hận. Sân hận như là thứ tình chủ đạo gây ra bao khổ ải suốt thế kỉ qua. Bài thơ không ý đồ làm việc đó, nhưng nó mang chứa khả tính đó.
Nó khép lại một thời đại. Vĩnh viễn khép lại(2).
2. Thế hệ đổi mới: 1986-2000
Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm,… và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.
Đất nước mở cửa, đổi mới; khi văn nghệ được cởi trói, họ làm gì?
Thơ ca cách mạng cùng hậu duệ của nó là sáng tác thuộc hệ sử thi phát triển mạnh mẽ 10 năm sau đất nước thống nhất, họ không thể viết theo dòng ấy nữa. Họ càng chưa có cơ hội nhận được thông tin đa chiều hay tiếp nhận nền thơ ca thế giới với bao nhiêu trào lưu như thứ cửa hàng bách hóa tổng hợp để tha hồ chọn lựa, như thế hệ thơ hậu-đổi mới. Mở cửa – họ đối mặt với khoảng trắng mênh mông của sáng tạo, của ý thức và trách nhiệm của một nghệ sĩ tự do. Họ biết mình không còn có thể viết như trước. Họ cần làm mới, thức nhận rằng mình phải khác. Phải gánh lấy trách nhiệm định phận thi sĩ của thế hệ, của thời đại.
Nhưng mới, khác thế nào?
Đó là một thế hệ thơ hẫng! Họ bơi vô căn trong nỗ lực tìm đường, đối mặt với nỗi cô đơn cùng tận trước trang giấy trắng. Chấp nhận và chịu đựng. Một sức ép đè nặng lên họ; một nỗ lực và chịu đựng ghê gớm, gần như bất khả vượt. Trên bước đường, có không ít nhà thơ tài năng đã bỏ cuộc. Trong đó có kẻ về hưu non, số còn lại chạy náu thân chốn báo chí hoặc cứ viết tới như thể “thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”.
Nhưng giữa khí quyển văn chương đó, số ít đã đứng vững. Tiếp tục lên đường và sáng tạo trong cô độc và bất trắc. Bao nhiêu tác phẩm thơ được cho ra đời, sau tháng ngày hoài thai và nung nấu. Với bao nhiêu tên tuổi: Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn, Trần Tiến Dũng, Dư Thị Hoàn, Thảo Phương, Nguyễn Quốc Chánh, Thu Nguyệt, Trần Anh Thái, Phạm Mạnh Hiên, Lê Thánh Thư, Nguyễn Quang Thiều, Tuyết Nga, Nguyễn Bình Phương, Đặng Huy Giang, Trương Nam Hương, Vũ Trọng Quang, Trần Hữu Dũng, Bùi Chí Vinh,…
Thế hệ thơ hẫng. Không phải hẫng ở tài năng mà, ở kết nối “truyền thống và hiện đại”, như lối nói quen thuộc dễ dãi; và hẫng hơn cả là trong quan hệ với người đọc. Nếu trước đó, mỗi tập thơ được in là một sự kiện, hay ít ra cũng được báo chí [bao cấp] đặt hàng giới thiệu thì, các tập thơ của thế hệ thơ đổi mới chịu cảnh gần như bị bỏ quên. Không được cơ chế thông tin bao cấp ưu ái, họ càng chưa giỏi xoay sở, giỏi quảng cáo tên tuổi như các nhà thơ thế hệ sau đó.
Từ bỏ thi pháp truyền thống, họ còn rời bỏ cả đề tài chủ lưu: cuộc chiến tranh vừa qua. Nếu có, chiến tranh được soi rọi lại bởi nhiều ánh sáng, từ nhiều góc độ khác nhau. Có khi soi kĩ đến “lệch pha”, thi phẩm bị coi là một thứ diễn biến hòa bình. Trong lẫn ngoài nước.
Tại hải ngoại, sau thời gian dài thơ vướng kẹt vào đề tài chính trị bên cạnh niềm hoài hương, thơ đã tự khai phóng để đi tìm vùng đất mới, khác. Tạp chí Hợp lưu, Thơ, Việt,… ra đời đáp ứng trúng nhịp thời đại. Trước đó là tạp chí Văn học, Thế kỉ 21, Văn, Diễn đàn Paris(3). Hàng loạt khuôn mặt mới xuất hiện hay người cũ viết lại nhưng mở hướng đi khác: Ngu Yên, Đỗ Quyên, Thường Quán, Trần Nghi Hoàng, Lê Văn Tài, Lưu Hy Lạc, Uyên Nguyên, Chân Phương, Lê Bi,… Tháng 10-1993, chủ đề “Thơ ca Việt Nam hiện đại” kỉ niệm hai năm tạp chí Hợp Lưu tập hợp nhiều khuôn mặt thơ tài năng; rồi Thơ Diễm Châu (NXB Trình Bầy, Pháp, 1993) và Tô Thùy Yên thơ tuyển (Hoa Kì, 1995) ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, mở ra hướng đi mới cho thơ Việt hải ngoại. Các tạp chí, tập thơ tìm đến độc giả trong nước, đã gây sự chú ý và tác động đáng kể. Không ít tác phẩm được chuyền tay nhau đọc hay nhân bản bằng photocopy.
Giai đoạn này, ở các tỉnh phía Bắc, các nhà thơ trong nhóm Nhân văn – Giai phẩm lần lượt xuất hiện trở lại, gây được không khí cởi mở trên thi đàn, qua đó tạo ảnh hưởng không nhỏ đến các sáng tác trẻ. Dương Tường – Lê Đạt ra mắt trong tập 36 bài tình (1989), Hoàng Hưng in Người đi tìm mặt (1993) sau Ngựa biển (1988) 5 năm, Bến lạ của Đặng Đình Hưng được xuất bản năm 1991, Lê Đạt sau Bóng chữ (1994) là Ngó lời (1997), Trần Dần xuất hiện qua Cổng tỉnh (1994), cuối cùng Phan Đan năm 2004 cơ hội đưa hàng loạt thơ sáng tác vào thập niên tám mươi lên Tienve.org,…
Ở Sài Gòn, tuyển tập thơ và tiểu luận Gieo & Mở (1995-1996) ra hai tập rồi ngưng. Sau đó, Thơ Tự do gồm mười tác giả khuynh hướng cách tân in chung (1999) tiếp bước, rồi Tuyển tập Văn chương, ra mắt số đầu tiên vào năm 1999(4). Tất cả như đang dọ dẫm tìm cách bứt phá, cả trong lối viết lẫn cách xuất hiện. Họ lách luật, tìm mọi cách để lách luật. Khi lách đến không thể lách được nữa, họ bất cần!
3. Phương tiện mới, thế hệ mới
Thái độ bất cần thể hiện ngay trong lời tựa của tập thơ in photocopy Của căn cước ẩn dụ (2001):
“Thật ngô nghê khi vừa muốn tự do vừa muốn cơ chế chuyên chính cho phép. Tôi đã hơn hai lần ngu như vậy. Và trớ trêu cả hai lần (tuy nhọc nhằn) nhưng đều được phép (…)
Viết, in và phát hành trong sự cho phép, là một cách tiếp tay với sự phản động theo nghĩa là kéo dài những biến tướng. Bởi nó ít có tác dụng thúc đẩy. Mà chỉ thêm những kẻ đồng lõa với âm mưu bóp chết tự do cá nhân.
Tôi có mấy chục người quen, một ít người bạn, và chỉ với cái văn minh vi tính, thơ tôi có thể được đọc một cách sạch sẽ mà không phải khom xuống để chui qua sự khám xét nào”(5).
Có thể nói tuyên bố của Nguyễn Quốc Chánh là hành vi phản kháng đầu tiên về tình trạng xin – cho xuất bản các tác phẩm nghệ thuật ở trong nước. Nhưng chính nhóm Mở Miệng xuất hiện với tác phẩm in photocopy(6): Vòng tròn sáu mặt, tập thơ in chung gồm sáu tác giả thơ trẻ tại nhà xuất bản Giấy Vụn vào đầu năm 2002, mang yếu tố quyết định. Nó làm cuộc chuyển hướng lối nhìn nhận một tác phẩm và cách cho ra đời tác phẩm: không phải chỉ khi sách được đóng dấu của nhà xuất bản chính thống mới là tác phẩm, sách in photocopy thì không. Từ đó hàng loạt tác phẩm do Giấy Vụn và vài nhà xuất bản vỉa hè khác cho ra mắt công chúng, hoàn toàn phá đổ vách ngăn lâu nay văn nghệ sĩ chịu đựng và mặc nhiên chấp nhận. Cho dẫu các sự cố thu hồi sách đã có giấy phép và lưu hành xảy ra nhỡn tiền, ngày càng thô bạo và đau lòng hơn, các tác giả – tác phẩm nhạy cảm vẫn cứ muốn “vượt biên”.
Như tiếp tay với lối nghĩ mới này, thành tựu internet kéo theo hàng loạt website văn học tiếng Việt ra đời vào cuối năm 2002 đầu 2003: Tienve.org, Talawas.org, Tapchitho.org, Evan, Anmayvanchuong, Vanchuongviet.org, Damau.org,…(7) Rồi từ năm 2006, blog và website cá nhân của nhà văn nhà thơ được mở. Con số liên tục tăng. Tất cả như góp sức xô đổ bức vách cuối cùng, qua đó kích thích sự tự do tìm tòi sáng tạo. Tất cả đều hướng về phía mở, phía dân chủ. Mở và dân chủ từ cách nghĩ, cách nhìn hiện thực đến cách viết, cách tiếp nhận một tác phẩm văn học. Sự kiện này đánh dấu mốc cuộc thay đổi mang tính cách mạng trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại. Chỉ nhà thơ tự bó gối trong căn chòi mĩ học cũ, vùng đất cũ, thói lề xuất hiện cũ, còn lại đều được nền văn hóa internet ban cho cả không gian mênh mông để thể hiện và đưa tác phẩm mình đến với công chúng ở mọi nơi trên thế giới. Có thể nhận rằng, internet là phương tiện giải trung tâm hữu hiệu nhất trong thời đại toàn cầu hóa. Nhà thơ thoát khỏi mọi ám ảnh cái dao kéo kiểm duyệt hay tâm lí tự kiểm duyệt tệ hại từng trì níu và thao túng họ suốt 30 năm.
Chính thời điểm này, thế hệ thơ hậu đổi mới xuất hiện.
Internet và bùng nổ thông tin, ngoại ngữ hết còn là rào cản, thế hệ nhà văn hậu đổi mới có cơ hội tiếp cận mọi trào lưu văn học ở bên ngoài mà họ không được biết đến thuở ngồi ghế giảng đường. Không ít người trong số họ nhiều lần được nhìn tận mắt nhân loại phát triển như thế nào, ở bên kia đại dương. Khi được mở mắt, mở trí và mở hồn, thế hệ hậu đổi mới hết còn tin vào các giá trị mới hôm qua ông bà chú bác họ từng tin và cật lực xây dựng, bảo vệ.
Ở phía ngược lại, các nhà thơ Việt ở hải ngoại đã tự do đi và về Việt Nam, có nhiều cơ hội để nhìn ngắm quê hương đổi mới, phát triển, giải tỏa ức chế cũ hay phản biện cuộc sống mới, bên cạnh tiếp nạp vô số ngôn từ mới lạ được đẻ ra trên đất nước hơn tám mươi triệu dân gồm 54 tộc người này.
Qua tiếp xúc trực tiếp hay qua phương tiện vi tính, giao lưu và kết hợp trong/ ngoài được thực hiện, không cần phải qua cửa chính thống. Các nhà thơ trong nước hết dè dặt đăng các sáng tác trên mạng nước ngoài và ngược lại, tác phẩm của nhà thơ hải ngoại cũng được trình làng độc giả nơi cố quận, bằng nhiều con đường và hình thức khác nhau. Những Cao Tần, Phan Nhiên Hạo, Nguyễn Thị Thanh Bình, Phan Tấn Hải, Đinh Trường Chinh, Nguyễn Đức Tùng, Thận Nhiên, Quỳnh Thi, Phạm Việt Cường, Lê Giang Trần, Triều Hoa Đại, Trân Sa,… không còn là những cái tên xa lạ nữa. Nhóm Hội luận văn chương mở cuộc hội thảo trên mạng bàn về văn chương trong ngoài, thu hút bao nhiêu nhà thơ, nhà phê bình tham dự (đã ngưng sau hơn nửa năm sinh hoạt). Bàn tròn văn chương sinh hoạt bên lề Hội Nhà văn Việt Nam, qua 7 kì Bàn tròn đã tập hợp đa thành phần, đa xu hướng sáng tác, nhiều lứa tuổi khác nhau với số lượng người tham dự ngày càng tăng để thực sự cùng bàn về văn chương đương đại; đề tài hay tác giả – tác phẩm của Bàn tròn được chọn tự do, vô phân biệt; thành viên thảo luận tự do trong một không khí cởi mở, vô ngại. Là ba điều chưa từng xảy ra trước đó(8).
Tất cả góp phần mình vào phi tâm hóa sinh hoạt văn chương và nhất là, phi tâm hóa chính văn chương. Thế hệ hậu đổi mới đóng vai trò quyết định trong hành trình này. Cùng với không ít nhà thơ đã thành danh thuộc thế hệ đổi mới hay thế hệ trước nữa nhưng đã vượt thoát hệ mĩ học hiện đại, để nhập lưu hậu hiện đại hay tìm lối đi riêng.
Họ có mặt và làm nên Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại. Bất kể tuổi tác, thế hệ hay vùng miền cư trú, lãnh thổ địa lí. Đó là những sáng tác từ năm 1996 đến năm 2008, ở đó năm 2002 – năm ra đời của văn chương mạng – được coi như là thời điểm bản lề làm chuyển hướng mang tính quyết định. Thơ trong tập thơ, thơ đăng tạp chí, in lên mạng hay post trên blog cá nhân,… đề huề góp mặt.
B. Mở…
1. Từ tư thế ngoại vi
Đại đa số nhà thơ hậu hiện đại thuộc thời hậu đổi mới. Họ là nhà thơ ngoại vi. Ngoại vi bởi hoàn cảnh buộc họ lưu vong, ngoại vi bởi họ chọn lựa thế đứng ngoại vi khi sáng tác, cả khi họ làm việc trong các cơ quan công quyền, họ vẫn ngoại vi. Có thể xem đó là tình trạng lưu vong chung của nhà văn trong thời hiện đại. Nedim Gursel: “Lưu vong theo nghĩa rộng, là một trong những định mệnh khả hữu cho nhà văn thời chúng ta”(9). Có kẻ lưu vong ngay trên đất nước mình như Lý Đợi, Khúc Duy; người hai lần lưu vong như Nguyễn Hoàng Tranh, lưu vong tâm linh như Chân Phương, lưu vong ngôn ngữ như Đinh Linh, ngay cả kẻ tự nhận sống ở đường biên như Inrasara cũng là một dạng lưu vong, cuối cùng là thức nhận sâu thẳm tình trạng lưu vong để làm cuộc giải lưu vong như Đỗ Kh.
Ngoại vi, ngoại trừ vài tên tuổi nhất định, còn lại hầu hết tác phẩm của họ không được lưu hành chính thống, bị các phương tiện thông tin đại chúng trong nước từ chối, đại học dị nghị, nhà nước cấm đoán, nhiều nhà phê bình xa lánh hoặc làm như không hay không biết có thơ họ ở trên đời. Các giải thưởng văn học nhà nước không quan tâm đến họ đã đành, ngay các giải do tư nhân tổ chức cũng đánh trống lãng.
Thơ hậu hiện đại là thơ phản tỉnh mang tính phê phán hiện thực, thực tế đất nước và thực trạng văn chương. Nhà thơ hậu hiện đại chối bỏ mọi dạng đại tự sự grand narratives làm ngu muội đầu óc và làm u mê tinh thần. Chối bỏ đại tự sự không gì hiệu quả hơn thái độ giải thiêng sự thể. Giải thiêng hình chữ S của đất nước (Nguyễn Hoàng Tranh), giải thiêng ảo tưởng bốn ngàn năm văn hiến (Đinh Linh) hay niềm tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc (Nguyễn Đăng Thường), giải thiêng huyền thoại Việt Nam là nước thơ (Lý Đợi) và giải thiêng chính bản thân thơ ca (Bùi Chát): thơ ca chỉ là món hàng như mọi món hàng, nó không đứng cao hay thấp hơn các hàng hóa khác.
Giải thiêng để cơ hội nhìn thực tại bằng một cảm thức khác. Mang tư tưởng tự do, nhà thơ hậu hiện đại luôn có tiếng nói phản biện xã hội đương thời. Dân chủ giả tạo bàng bạc hay lồ lộ khắp nơi, họ chỉ nó ra. Lòng yêu nước chân chính bị đè bẹp để thứ yêu nước giả tạo lên ngôi, họ nói về nó. Bầu cử giả vờ, tổ chức lễ hội giả tạo, văn chương thiến hoạn và theo đuôi, phép lịch sự và lối sống văn minh giả tạo và, khi báo chí sợ nói thật về mọi điều giả tạo, họ lên tiếng về chúng.
Thơ hậu hiện đại quyết bóc trần sự mê hoặc mà thông tin đại chúng các loại muốn tác động vào xã hội, hướng ý thức quần chúng theo chiều nhìn có lợi cho đại diện quyền lực hiện thời. Nhìn từ khía cạnh này, ở cấp độ nào đó, không ít thơ hậu hiện đại là thơ phản kháng. Thế nhưng phản kháng mang tính xã hội và chính trị chỉ là sự va quẹt nhất thời trong một môi trường xã hội và khí hậu văn học tù túng, chật hẹp.
Thơ hậu hiện đại tự thân mang ý hướng phi tâm hóa. Không phân biệt thơ của người làm thơ cư trú tại các trung tâm văn hóa lớn hay tỉnh lẻ, xóa bỏ mọi đường biên phân cách thơ của người dân tộc thiểu số/ đa số, thơ trong nước/ hải ngoại, thơ của nhà thơ đã hay chưa là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, chính thống hay phi chính thống. Nhà thơ hậu hiện đại quyết đánh tan mặc cảm phân biệt giới trong sáng tác văn học.
Giải tán phân cách giới là thể cách giải trung tâm quan trọng. Vài chục năm qua, các tên tuổi: Trịnh T. Minh-hà, Phạm Thị Hoài, Lê Thị Huệ, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Hương, Đỗ Lê Anh Đào,… đã đi những bước dài. Ở trong nước, sau phong trào nữ quyền luận sơ khai qua sáng tác của Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư là nhóm Ngựa Trời với “cuộc cách mạng thơ dang dở” của họ. Không cần tuyên bố to chuyện mà, chỉ bằng một nhát dao, Nguyễn Thị Hoàng Bắc đã cắt đứt cái đuôi hậu tố “nữ”, rất tuyệt.
tiếng nước đái
nhỏ giọt
trong bồn cầu tí tách
thứ nước ấm sóng sánh vàng
hổ phách
trong người tôi tuôn ra
phải rồi
tôi là đàn bà
hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ
bây giờ
được ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ
tương lai không chừng tôi sẽ
to con mập phệ
tí tách như mưa
ngọn cỏ gió đùa(10)
Khởi đầu, hơi thơ “Ngọn cỏ” đi mạnh mẽ và trang trọng như bao bài thơ hiện đại khác. Người đọc đinh ninh sẽ bắt gặp nỗi gồng mình [phê phán hay tuyên bố gì đó đại loại] ở câu tiếp theo, như đã từng thấy nó biểu hiện ở thơ nữ trẻ mấy năm qua. Nhưng không, bài thơ bỗng chuyển hướng qua giọng phớt đời, khinh bạc rồi bất ngờ bẻ ngoặt sang đùa cợt đầy khiếm nhã!
Ví vắng bóng “ngọn cỏ gió đùa”, bài thơ chỉ dừng lại ở ngưỡng nữ quyền luận hiện đại: nghiêm trọng và quyết liệt. Nhưng chỉ cần một làn gió, tất cả đã lột xác, bài thơ làm cú nhảy ngoạn mục sang bờ bên kia của mĩ học hậu hiện đại. Tính chất nghiêm cẩn của giọng thơ đã được tháo gỡ. “Ngọn cỏ” thời lãng mạn được Nguyễn Thị Hoàng Bắc giải phóng. Hãy để cho ngọn cỏ tự do đùa với gió mà không buộc nó phải chịu phận so đo trong tinh thần phân biệt đối xử với sự đái. Cả sự đái của đàn bà cũng được cởi trói, qua đó thân phận tòng thuộc của chị em được giải phóng(11).
Giải trung tâm đầu tiên và cuối cùng của thơ hậu hiện đại thể hiện ngay trong cách ứng xử với ngôn ngữ. Lợi thế đa vùng địa lí, đa sắc tộc, trải qua nhiều thể chế chính trị với nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, tiếp nhận nhiều nguồn ngôn ngữ khác nhau, tiếng Việt hiện đại đã sinh sôi nảy nở đến không kịp ghi nhận. Rồi tiếng Việt của người Việt di cư sang Đức, Đài Loan, Canada; tiếng Việt của châu Úc, châu Âu, châu Phi lai ghép với tiếng bản địa nhập cảng trở lại càng làm cho kho tàng tiếng Việt thêm phong phú, đa sắc thái, tạp nham nhưng không kém lí thú. Chúng được đẻ ra và sống đời sống ngày thường, làm thành hơi thở không thể thiếu của cuộc sống người Việt hiện đại. Nhưng tiếng Việt ấy hiếm khi có mặt trong sáng tác văn chương. Chúng luôn bị văn chương nhìn bằng con mắt nghi kị, trịch thượng. Mãi khi thế hệ thi sĩ hậu hiện đại xuất hiện, chúng mới hết bị phân biệt đối xử. Tất cả chúng đều được đối xử công bằng, sòng phẳng. Chúng đi vào tác phẩm văn chương như từng hiện diện trong đời sống. Nguyễn Hoàng Nam và Đỗ Kh, Vương Ngọc Minh hay Lý Đợi, Bùi Chát với Đặng Thân, Đinh Linh hay Nguyễn Đăng Thường,… đã làm cuộc giải trung tâm đó, đầy ngoạn mục.
2. Hậu hiện đại vào Việt Nam
Gần mươi năm qua, từ khi “chủ nghĩa hậu hiện đại” postmodernism xuất hiện trong thế giới chữ nghĩa Việt Nam, nó đã gây dị ứng không ít từ nhiều phía. Dị ứng đầu tiên phát sinh từ não trạng sợ hãi cái mới, là điều khó tránh; tiếp: từ nỗi lo sợ bị mất giá (hư danh) hay mất ghế. Từ đó, ta thấy có những phản ứng tiêu cực đến phản [chuyển] động. Đã đành! Nhưng ngay những người có xu hướng ủng hộ cái mới cũng mang mặc cảm dị ứng lây. Nỗi này xuất phát từ bản thân người đọc không nắm tinh thần hậu hiện đại, nhất là khi một số nhà phê bình vẫn còn chưa thật tự tin khi bàn về hậu hiện đại, khiến dư luận cứ lưỡng lự, muốn xa lánh trào lưu văn chương này.
Phía người viết, bởi mới tiếp nhận sơ sài hậu hiện đại [và cả bất tài nữa], đã vội [học đòi] sáng tạo rồi vội vã ném ra ngoài mưa gió cuộc đời “đứa con tinh thần” èo uột của mình. Thế là vài nhà phê bình [cũng vội vàng không kém chộp lấy và] trưng ra mấy bài thơ “hậu hiện đại” nhem nhuốc kia rồi kêu đích thị hậu hiện đại nó là như thế, càng gây hồ nghi cho công chúng độc giả hơn.
Nếu chủ nghĩa hiện đại modernism xuất hiện ở thời điểm cuối của thời kì hiện đại mà cao điểm của nó kéo dài từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thập niên bốn mươi và kết thúc vào đầu thập niên sáu mươi, thì chủ nghĩa hậu hiện đại gần như có mặt cùng lúc với thời kì hậu hiện đại postmodernity: đầu thập niên bảy mươi của thế kỉ trước. Từ đó, hậu hiện đại trở thành một trào lưu văn hóa rộng lớn tác động rộng rãi đến nhiều lãnh vực: văn học – nghệ thuật, chính trị – xã hội,… Nó nhanh chóng bắt tay với người anh em như hậu cấu trúc luận, nữ quyền luận và đặc biệt, hậu thực dân luận, lan truyền ra khắp thế giới. Từ châu Âu, châu Úc cho đến châu Mĩ Latin và cả châu Á: Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc,…
Đứng trước trào lưu như là một xu thế chung mang tính toàn cầu ấy, Việt Nam không thể đứng ngoài. Dù chậm, nhưng ngay từ đầu thế kỉ XXI, các nhà phê bình và dịch thuật ta cũng kịp đã giới thiệu lí thuyết văn nghệ này đến với người đọc. Vài tên tuổi: Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn, Nguyễn Văn Dân, Nguyễn Minh Quân, Phương Lựu, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Phan Tấn Hải, Ngân Xuyên, Nguyễn Ước,…
Người sáng tác cũng đã có mặt. Họ sáng tác có ít/ nhiều yếu tố hậu hiện đại trong cảm thức/ thủ pháp: Bùi Chát, Lý Đợi, Phan Bá Thọ, Trần Tiến Dũng, Như Huy, Khúc Duy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Nguyễn Thúy Hằng, Lynh Bacardi, Lê Vĩnh Tài, Inrasara, Đặng Thân, Nguyễn Viện, Lê Anh Hoài, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Phạm Lưu Vũ, Nhật Chiêu, Hoàng Long, Thanh Xuân, Vũ Thành Sơn, Trần Wũ Khang, Khương Hà, Phương Lan, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phạm Tường Vân, Khánh Phương, Lê Hải, Jalau Anưk,…
Hậu hiện đại đang xảy ra tại Việt Nam, đó là thực tế. Lực lượng chưa nhiều. Không ít của chưa nhiều này không tự nhận sáng tác theo hậu hiện đại; còn lại cũng chưa áp dụng đầy đủ thủ pháp hậu hiện đại. Hơn nữa – ngoài nhóm Mở Miệng – mỗi nhà thơ đều sáng tác đơn độc, nên hậu hiện đại Việt chưa thể hình thành một trào lưu rộng lớn, tác động nhiều chiều đến văn học và xã hội nói chung.
Nhưng tất cả gặp nhau ở cảm thức hậu hiện đại.
Cảm thức hậu hiện đại postmodern sensibility
Cảm thức hậu hiện đại là một lối cảm nhận về thế giới như là một hỗn độn, vô nghĩa, bất khả nhận thức; nơi mọi bảng giá trị đều đổ vỡ, mọi định hướng ý nghĩa đều vô ích. Con người không còn manh niềm tin vào những gì lâu nay họ từng tin: Thượng đế hay Nhà nước, Tổ quốc hay Con người, Chân lí hay Lịch sử,…. Mọi “nỗ lực khôi phục trật tự đẳng cấp, hoặc những hệ thống ưu tiên nào đó trong cuộc sống, đều vô ích và không thể thực hiện được” (I.P. Ilin). Nhận thức thế giới của con người luôn là nhận thức đầy thiếu khuyết. Nói cách khác, tri thức chỉ là một hiện tượng, được diễn dịch một cách chủ quan bằng giải trình ngôn ngữ discourse, hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân. Nó không gì hơn một trò chơi ngôn ngữ. Trong lúc ngôn ngữ như một phương tiện đạt đến “chân lí” cũng không đáng tin cậy nữa.
Cảm thức thế giới là hỗn độn chaos, “khi mọi trung tâm không chắc chắn, các nhà hậu hiện đại chấp nhận sự hỗn độn như là một sự kiện và sống một cách thực tế, xâm nhập vào nó bằng “tình cảm mật thiết” (I.P. Ilin)(12). Thâm nhập thực tại, các nhà hậu hiện đại vượt bỏ niềm tin vào các đại tự sự grand narratives [hay siêu tự sự metanarrative], nói như Lyotard, chỉ là “các hệ thống giải thích”, những thứ chính thống hóa, toàn trị hóa quan niệm về thời đại vừa phiến diện vừa mang ở tự thân tính chất bạo động.
Phi đại tự sự xem trọng yếu tố cá nhân, là đặc điểm nhân văn của hậu hiện đại. Phi trung tâm hóa khẳng định vai trò ngoại vi là đặc điểm dân chủ mới của hậu hiện đại. Nó tôn trọng sự đa dạng, các giá trị trái nhau, những phi chuẩn, ngoại vi, dân tộc thiểu số, nữ, da màu, phi phương Tây, ngôn ngữ nhược tiểu, nền văn học “ngoại vi”,…
Nên có thể nói, hậu hiện đại là chủ nghĩa đa nguyên văn hóa. Thật sai lầm tai hại khi kết án hậu hiện đại chống lại truyền thống. John Barth: “Một nhà văn [hậu] hiện đại… có một nửa đầu của thế kỉ ở dưới nịt, nhưng không phải ở trên lưng”. Nghĩa là hậu hiện đại chấp nhận truyền thống (không chấp nhận truyền thống mới là phi-hậu hiện đại), nhưng không biến truyền thống thành gánh nặng.
3. Nhà thơ hậu hiện đại và viết hậu hiện đại
Hiện đại và hậu hiện đại
Khác với tham vọng của chủ nghĩa tiền phong đòi cắt đứt mọi quan hệ, qua đó tạo ra một phong cách đặc thù đẫm tính cá nhân, một phong cách khép kín đầy ngạo mạn, chủ nghĩa hậu hiện đại muốn khôi phục lại sự liên hệ với tất cả cái gì thuộc về quá khứ. Hầu hết mọi thủ pháp hậu hiện đại đều đã được nhà hiện đại hay hiện đại hậu kì biết đến. Sự nhấn mạnh tính chủ quan trong văn bản, sáng tác thuộc dòng ý thức, biên giới mờ giữa các thể loại, hình thức phân mảnh và sự không liên tục của ý tưởng, chối bỏ thứ trau chuốt mang tính tu từ, khước từ phân biệt hình thức cao/ thấp, trí thức/ bình dân của nghệ thuật,… được chủ nghĩa hiện đại khai phá và đã có các thành tựu lớn, giai đoạn qua.
Nhiều đặc điểm ở hậu hiện đại đã có mặt ở các sáng tác hiện đại chủ nghĩa – không sai! Nhưng điều quyết định xẻ ranh khu biệt hậu hiện đại với cái khác nó, là: nền tảng triết học và thái độ. Thái độ, đó là trong lúc nhà văn hiện đại mô tả đầy chủ ý sự thể như nỗi bi thảm, và khóc than cho chúng trong nỗ lực gắn kết, tìm sự thống nhất một cách tuyệt vọng, thì nhà văn hậu hiện đại không những từ chối tham dự để dàn xếp, đưa chúng vào trật tự mà còn chấp nhận chúng, tán dương chúng, nhập cuộc chơi với chúng – khoái hoạt!
Khi người nữ tuyên bố sẽ làm nghiêng đổ ổn định, phá vỡ mọi quy ước, chặt đứt quá khứ, thoát khỏi tính bầy đàn để khẳng định cái tôi với cả rổ hình dung từ ngổ ngáo thì đó chỉ là một mở đầu cho nữ quyền luận sơ khai; nhưng chỉ cần “ngọn cỏ gió đùa” thổi lướt qua, khẳng định kia mới ra nữ quyền luận hậu hiện đại.
Khi Nguyễn Hữu Hồng Minh tuyên xưng: “Tôi là Tổng thống trong chính phủ thơ ca”(13), đó là một sự tuyên xưng hiện đại; nhưng khi Lý Đợi tuyên bố “không làm thơ” mà anh cứ làm thơ, hay Nguyễn Tôn Hiệt viết “Tuyên ngôn thơ thực hiện” hẳn hoi nhưng bản thân anh quay lại đùa nghịch với chính tuyên ngôn của mình, thì đó chính là tuyên ngôn hậu hiện đại.
Khi ta than không còn nơi nào để di cư và lưu vong, ta đau khổ bởi nó, là ta đang gánh tâm thức hiện đại; chỉ làm như Đỗ Kh. xem di cư như là sự chuyển dịch đầy lí thú và lưu đày chính là quê nhà, ta mới đầy tràn tâm thức hậu hiện đại.
Văn Cao chết, Trịnh Công Sơn chết kèm theo đó là bao lời điếu văn và diễn văn đau buồn. Đó là điều thiêng liêng. Thế nhưng đã không ít kẻ biến thiêng liêng ấy thành món ăn theo tệ hại. Bùi Chát sẵn sàng nhại âm “hu hu hu” để đùa nghịch lời điếu văn sáo mòn giả tạo ấy. Nếu điếu văn, diễn văn long trọng quá đáng và có nguy cơ bốc mùi, Nguyễn Hoàng Nam bỡn cợt nó cách khác nữa:
những giây phút cuối cùng của con cặc tôi
cũng khá cảm động
Chú thích: theo lời kể lại thì cảm động ngang ngửa với các bài diễn văn.
(Nguyễn Hoàng Nam, “Gia tài”)
Họ là nhà thơ hậu hiện đại.
Khi các bức tường của thành phố Sài Gòn nhem nhuốc những “khoan cắt bê tông”, “chữa yếu sinh lí”, các nhà hiện đại lên tiếng than phiền cho sự xuống cấp của xã hội và cảm nghe bất lực thì Lý Đợi – nhà thơ hậu hiện đại xem nhem nhuốc kia là bộ phận thiết yếu của đời sống đô thị Việt Nam đương thời, như là nét tô vẽ làm cho thành phố thêm nhốn nháo, sống động.
Khi các nhà ngôn ngữ và nhà thơ hiện đại đang ngày đêm lo lắng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, thì Đinh Linh thích thú mở cuộc mổ xẻ vành tai tiếng Việt theo cách của mình; từ đó đưa cơ man ngôn ngữ đời thường vào thơ, bày đặt cả lô từ vựng quái dị để lột tả các hiện tượng quái dị nữa; Đinh Linh là nhà thơ hậu hiện đại.
Khi bản sắc truyền thống văn hóa Việt Nam, từ lễ hội cho đến màn ca cổ, từ vụ biểu diễn thời trang hoa hậu áo dài cho đến việc bố trí cụ đồ hiện đại ngồi vỉa hè thủ đô đang được bao nhiêu tổ chức văn hóa trong nước nâng niu, cải tiến và nâng cấp để mang ra khoe mẽ với thế giới, Nguyễn Đăng Thường nhìn vào mặt trái của chúng; anh làm thơ nhạo nhiếc chúng không tiếc lời. Nguyễn Đăng Thường là nhà thơ hậu hiện đại.
Khi nhà lãng mạn tin tưởng vào tiền đồ đất nước, vào tương lai tươi sáng của dân tộc, với tiến bộ về mọi mặt thì Đỗ Kh. đưa cái nhìn soi vào cả bề nổi lẫn chìm, sáng lẫn tối.
Cao ốc ta sẽ chọc trời hơn là Hương Cảng
Ta sẽ có nhiều đĩ hơn là Thái Lan
(Đỗ Kh., “Ngũ Long hành khúc”)
Thấy và kể ra khơi khơi vậy thôi. Không trầm trọng hóa vấn đề, nhưng ở đó vẫn mang đầy yếu tố cảnh tỉnh, Đỗ Kh. là nhà thơ hậu hiện đại.
Sâu sắc, lạ biệt, độc đáo, nén, ý tại ngôn ngoại là tiêu đích phấn đấu của mọi nhà thơ hiện đại; các nhà hậu hiện đại làm ngược lại, tất cả được đưa lên bề mặt, lòi ra, trồi lên. Bề mặt này còn thể hiện ngay ở cách chọn đề tài. Đinh Linh thơ về thực đơn, về cơm và cháo, ngôn ngữ và thịt. Bùi Chát nêu “Việc kém hiểu biết trong vấn đề phòng & tránh thai dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc”. Còn Vũ Thành Sơn tìm hiểu “Lý do tôi không uống cà phê sáng nay”. Nghĩa là chuyện vụn vặt đời thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày đều là đề tài hấp dẫn của thơ hậu hiện đại.
Các nhà thơ hiện đại coi thơ là môn nghệ thuật cao cả và sang trọng, là nghệ thuật của mọi nghệ thuật, đáng ngồi vào đền thiêng của nền văn hóa của các dân tộc; nhóm Mở Miệng quyết lôi nó xuống lòng đời, cùng lăn lóc và lấm lem giữa chợ đời.
Viết hậu hiện đại
Tất cả cái mới đã bị các nhà hiện đại khai thác cạn kiệt. Đây là thời văn chương [của sự] cạn kiệt the literature of exhaustion, John Barth nói mạnh mẽ thế. Nhưng mươi năm sau thôi, ông nghĩ khác, tuyên bố khác: Đây là thời văn chương [của sự] phong dật the literature of replenishment (John Barth, 1980)(14). Nhà văn hậu hiện đại nhập lưu vào mênh mông hiện thực thậm phồn, khắp xung quanh là cả kho tàng trân bảo văn liệu và ngữ liệu sẵn có của nhân loại, họ đến đó, cúi xuống nhặt lấy và khai thác. Mỗi văn bản là một liên văn bản. Mặc cảm đụng hàng không còn nữa. Phỏng nhại pastiche là sáng tạo, cắt dán là sáng tạo: Sáng tạo hậu hiện đại.
Rất nhiều nhà thơ lẩy ra các thành ngữ, tục ngữ hay ca dao có nội dung gần nhau, sắp đặt chúng theo hàng dọc, hàng ngang để tạo thành bài thơ; không ít người viết còn lượm nhặt các khẩu hiệu, các bảng cấm hay khuyến dùng để làm ra bài thơ nữa. Đó chính là lối viết hậu hiện đại.
Chồng em nó chẳng ra gì—
Ngu, ấu trĩ, cả đời bợ đít mẹ—
Tổ tôm xóc đĩa nó thì chơi hoang—
Thua, nó còn đi bia ôm để giải xui!—
Nói ra xấu thiếp, hổ chàng—
Nói phí hơi, ai chẳng biết?—
Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà—
(Đinh Linh, “Giữa chị em ta”, Lĩnh Đinh Chích Khoái, Sài Gòn, NXB Giấy Vụn, 2007)
Tôn trọng và nói lên “sự thật” lịch sử là mục đích của mọi sử gia và con người bình thường, nhưng nhà thơ hậu hiện đại nghĩ khác. Lịch sử không phải là quá khứ mà là câu chuyện về quá khứ do một cá nhân hay cộng đồng kể lại. Nó chỉ là một trong những diễn ngôn discourse. Nơi “Hemingway & bướm – nguyễn & xe tăng”, nhà thơ hậu hiện đại Phan Bá Thọ không e ngại cho Hemingway tác giả Ông già và biển cả được kết nạp vào hội viên nhập Hội Nhà văn Việt Nam hay cắm cờ trên nóc hầm Đờ cát, kết bè cùng Phạm Duy đi hút thuốc phiện. Không dừng lại tại đó, Phan Bá Thọ cố tình nặn ra hàng loạt thông tin dư thừa không cần thiết rồi nhét bừa vào bài thơ nữa. Không vấn đề gì cả, đó chính là thủ pháp siêu hư cấu sử kí historiographic metafiction, một đặc trưng của lối viết hậu hiện đại, lối viết không những làm méo mó lịch sử một cách có chủ ý, hòa lẫn lịch sử và giả tưởng, xáo trộn trật tự thời gian quá khứ nhằm phá vỡ tính mạch lạc của lối kể truyền thống.
Nhà thơ hậu hiện đại có thể sử dụng tin từ tờ báo ngày, thông tin trên mạng làm thứ chất liệu (như từ, cụm từ, hay cái gì nữa bất kì) sẵn có, chế biến tùy ý, thêm vài nhận định chủ quan để làm ra bài thơ. Lý Đợi là chuyên gia sử dụng thủ pháp này.
Thể hiện tinh thần độc sáng, hầu hết các nhà thơ hiện đại chọn thơ tự do không vần trong các sáng tác, tránh tối đa các thể thơ truyền thống. Nhà thơ hậu hiện đại đối xử vô phân biệt truyền thống hay hiện đại. Họ xài đủ thể thơ có trong tay. Nguyễn Thế Hoàng Linh tuyệt chiêu với lục bát hậu hiện đại đầy sáng tạo của mình. Bên cạnh Khế Iêm từ hậu hiện đại chuyển qua tân hình thức, chủ trương “sử dụng thi pháp đời thường thay thế thi pháp cảm tính”(15); qua đó lôi cuốn cả mấy chục người thử nghiệm tân hình thức Việt, các nhà thơ hậu hiện đại Việt khác tiếp nhận và bày ra bao nhiêu loại thơ nữa. Nguyễn Hoàng Tranh: thơ thị giác visual poetry, kết hợp ngôn ngữ và hình ảnh:
trôi từ dòng sông bên ngoài giấc mơ sóng soãi thuộc về cửa lớn
phía trước giăng giăng vực âm tử nạn tuột vào tim hang động thủy tinh
tháo tung những ổ khóa đặc sệt mặt người dòng sông chảy đám đông khỏa thân lúc nhúc
qua những con đường ————————–> ———– ————— ———————> ——————— ————— ———————->
<————————- <—————– —————- <——————–
tiếng kèn đồng khua vỡ tính phẳng lạnh trục chéo gia tốc thời gian
đêm dị giáo
tước đoạt tặng vật trá hình nguyên thủy
choàng dậy
choàng dậy
cơn đồng thiếp đá đen
mạch kinh bossa nova báo tử điệu kèn bùa ngải
đường chân trời ẩm ướt
đóng sập cánh cửa lớn
mật âm nguyệt quế rỉ nước sau giờ phút hư đốn hân hoan
hóa trang từ đất thân đen
đôi bồ câu bay qua múi giờ 90°+
bầy khỉ bên kia sông đổ sầm xuống đêm ngờ vực
bossa nova:
cành hông.
(“Đêm Dị Giáo: Từ Bossa Nova Đến HN-T”, Thở, 2003)
Đặng Thân và thơ phụ âm, Nguyễn Tôn Hiệt với thơ thực hiện, thực hiện Tuyên ngôn thơ vô tiền [khoáng hậu] trong lịch sử thơ Việt.
Lê Văn Tài bằng hàng loạt bài thơ cụ thể concrete poetry đăng liên tục trên Tienve.org, tạo một hiệu quả nghệ thuật đặc biệt. Bài “Văn bản toàn trị [nhìn sâu]”, chữ và nghĩa hoàn toàn vắng mặt, dành chỗ cho màu sắc và hình khối. Một bức tranh nhiều màu án ngữ giữa màn hình vi tính. Vòng ngoài là loạt bàn chân cùng đi một chiều, tạo cảm giác trăm bước đi trên một lối mòn đã định hướng sẵn, phần trong là các que ngoặc không đều gồm hai màu xanh và xám vô trật tự, trung tâm bức tranh là chiếc sọ dừa với hai thanh dùi cui như hai chiếc xương bánh chè bắt chéo ở tư thế dọa nạt “nguy hiểm chết người”, nhưng sọ dừa kia vẫn rất mực tỏ vẻ đạo mạo đầy quyền uy qua chiếc cà vạt nghiêm chỉnh với hai bàn tay xòe áp vào ngực.
Nguyễn Hoàng Nam với thơ graphic. “Những ngày vô cảm” sử dụng phần mềm graphic của thời vi tính, nhưng bằng các “vật liệu” và đơn vị ý tưởng rất cổ điển: chữ Hán, cờ tướng, thế kẹt Mã điền, những nội dung “thời của tốt đen” và “anh hùng mạt vận” v.v. nhìn qua ai cũng biết, anh đã sáng tạo tác phẩm mới lạ mang nội dung của thời đại tạo một cảm xúc đặc biệt. Dấn thêm một bước, Nguyễn Hoàng Nam còn chế tạo ra loại “thơ phân thân” chưa từng có tiền lệ. “Một bàn chưn” tự tách ra khỏi chủ thể con người để làm cuộc hành trình độc lập với cả chuỗi hành động qua cuộc phiêu lưu riêng lẻ, không liên quan đến con người từng “sở hữu” nó.
Nguyễn Tôn Hiệt với thơ động tác. “Trăm năm trong cõi / người ta” là bài thơ gồm toàn danh từ hay danh từ kèm động từ; chủ từ hoàn toàn vắng mặt, tính từ và trợ động từ càng không. Anh phó mặc người đọc với trò ráp nối và diễn dịch chủ quan trong một hoàn cảnh, tâm trạng nhất định của họ. Đinh Linh, Đỗ Kh.: thơ photo và thơ video. Nghĩa là nhà thơ hậu hiện đại không từ chối hay chống lại mà tận dụng mọi lợi thế của khoa học kĩ thuật, để làm thơ.
Khánh Phương, lần đầu tiên “biến tấu” từ Kan-ji – tập hợp chữ Hán được người Nhật dùng vào việc đồng thời ghi âm và biểu í trong kết hợp ngữ pháp đặc thù của tiếng Nhật-, một biến tấu gợi những trải nghiệm mở không phải không lí thú.
Với năm “Kan ji”, từ “Kan ji, 1” đến “Kan ji, 5”, Khánh Phương đã đẩy “thơ khách quan” đi rất xa. Hãy nghe nhà thơ này tuyên ngôn:
“Kan-ji là tập hợp chữ Hán được người Nhật dùng vào việc đồng thời ghi âm và biểu ý trong kết hợp ngữ pháp đặc thù của tiếng Nhật. Là loại chữ tượng hình và biểu ý nên Kan-ji có trường nghĩa mở, lung linh, đồng hành với những bước phát triển của xã hội và tư duy người Nhật, biểu đạt trọn vẹn và lan toả tinh thần Nhật Bản tự cường, kiêu hãnh đúng nơi đúng lúc, nghiêm cẩn nhưng cũng rất khoan hoà. Phần biểu ý của Kan-ji gần trùng khớp với hệ thống Hán tự ở Việt Nam. Lấy cảm hứng từ ý nghĩa của Kan-ji trong đời sống ngôn ngữ Nhật Bản, tôi muốn thực hiện những biến tấu mới với kinh nghiệm tiếng Việt, hướng tới những trải nghiệm ngôn ngữ giữa cái đơn nhất và đa bội, cái dị biệt và thông thường, cái ổn định và khác lạ… — những trải nghiệm mở”(16)
Đã thấy Dương Tường “biến tấu” các con âm tiếng Việt, dù công cuộc không tới đâu nhưng cũng rất đáng ghi nhận. Bùi Giáng với các bài lục bát “hậu hiện đại” hay các sáng tác mà từ Hán Việt chiếm thế áp đảo rất độc đáo của ông nữa. Tất cả đều được gợi hứng từ chữ Việt hay âm Việt. Khánh Phương là người đầu tiên “biến tấu” từ Kan-ji, một biến tấu gợi những trải nghiệm mở khá lí thú:
Váy tôi quá ngắn mà đùi quá dài đố ai viết thêm chữ khẩu
Tiệm bánh ở những Tabeno Machi khó khăn giữ chữ tín đôi khi sơ suất
… hàng vạn đóa san hô trồi lên chữ hải
Hành động thơ này mang trong nó khả tính khai mở cho những nẻo đường phát triển thơ Việt ngày mai.
Không ít nhà thơ viết truyện rất ngắn nhưng vẫn cứ xếp nó vào mục thơ, có kẻ viết thơ như là viết tiểu luận ngôn ngữ. Đinh Linh và Đặng Thân đã làm như thế. Quan điểm hậu hiện đại: giải khu biệt hóa và phi tâm hóa ngay trong các thể loại, họ thích thú kết hợp và trộn lẫn các thể loại để tạo nên một thể loại văn chương khác, mới. Khi họ muốn gọi nó là bài thơ thì đó chính là bài thơ.
Cuối cùng, sáng tác hiện đại rất ý thức về tác giả, về bản quyền tác giả trên tác phẩm mình. Bởi họ tìm tòi và độc sáng. Nhà hậu hiện đại nghĩ ngược lại: chẳng có gì là độc sáng cả. Mỗi sáng tạo là một vi phạm bản quyền, nhiều hay ít, ẩn hay hiện, lộ liễu hay kín đáo, nên họ không kiêng nể sử dụng ngay tác phẩm có sẵn và chế tác trên nó. Bùi Chát đã làm nguyên tập thơ nghĩa địa như thế mà không sợ bị đưa ra tòa: Xin lỗi chịu hổng nổi!
Chắc chắn sẽ có phản ứng: thơ như thế mà “khó” gì, cứ kí sinh trên tác phẩm của người khác, cứ xáo bừa mọi hình ảnh/ ngôn từ/ ý tưởng như nhà cái bầu tôm xóc dĩa làm thì cũng xong cái bài thơ. Và thơ để làm gì, nếu không sáng tạo được thêm thủ pháp mới, phương cách mới để khám phá hiện thực, nói lên tiếng nói sâu sắc, mới lạ để làm rung động lòng người?
– Đúng. “Hậu hiện đại tháo gỡ vấn đề tha hóa bằng cách tháo gỡ luôn hiện thực” (Mikhail Epstein, 2000), để cái lâu nay chúng ta tưởng là hiện thực lộ nguyên hình là hiện thực giả. Chỉ có ngôn ngữ đẻ ra ngôn ngữ và tạo ra thế giới. Mà ngôn ngữ lại đầy giả tạo trong một thế giới ngập tràn hình ảnh giả tạo, “những hình ảnh phi căn nguyên” image-without-an-original (J. Baudrillard, 1995) trùng trùng duyên khởi tạo nên một thứ hiện thực thậm phồn hyper-reality(14). Đó là cách tái khám phá hiện thực của hậu hiện đại, thể hiện sinh động ở các sáng tác của Đinh Linh, Vũ Thành Sơn, Đỗ Kh.,…
Cái nhìn phản tỉnh về hiện thực (hiện thực là bản sao giả tạo simulation) và văn bản (mỗi văn bản là một liên văn bản) như thế đã đẻ ra thứ thủ pháp giễu nhại parody, là thủ pháp đặc trưng nhất của lối viết hậu hiện đại. Thủ pháp được Lý Đợi vận dụng triệt để ở hầu hết bài thơ của mình(17).
Từ chối bề sâu, hậu hiện đại nhấn về bề mặt, sự trồi lên; nhưng bề mặt và trồi lên không đồng nghĩa với nông cạn, hời hợt. Nó vẫn khả năng đánh động con người ở bề sâu thẳm của cảm xúc và trí tuệ. Ai dám bảo “Một nhà thơ bị đánh chết” của Lý Đợi hay “Khóc Văn Cao” của Bùi Chát, “Mùi của riêng em” của Lê Thị Thấm Vân, “Quà tặng của Quỷ sứ” của Trần Wũ Khang hay các dòng lục bát khơi khơi của Nguyễn Thế Hoàng Linh không xúc động lòng người. Có, nhưng nó gây xúc động theo cách thế hậu hiện đại.
Thơ để làm gì, nếu nhà phê bình không đoái hoài, người đọc thì không thể tiếp nhận? Câu hỏi đặt ra không sai!
Phê bình hậu hiện đại
Kinh nghiệm đọc của Nguyễn Hiến Lê với nhóm Sáng Tạo là bài học nhỡn tiền. Đánh giá sáng tác của người cùng thời, vị học giả khả kính cho rằng các tác giả theo phong trào này chẳng làm gì ra hồn cả, ngoài món lập dị. Thế nhưng, ở miền Nam, chính nhóm Sáng Tạo chứ không ai khác đã công lớn trong chuyển hướng và phát triển thơ Việt hậu bán thế kỉ XX. Không thể đánh giá sáng tác thuộc một hệ mĩ học dựa trên cơ sở mĩ học từng hiện hữu trước đó. Chỉ có nhà phê bình tay nghề cao mới khả năng nhận ra cái hay ở nhiều loại thơ khác nhau, nhất là với loại thơ sáng tác theo hệ mĩ học mới. Sáng tác hậu hiện đại thì càng.
Dù sao, nếu chưa thể thẩm thấu và nhận định các tác phẩm này qua lăng kính mĩ học của chính nó thì ít ra, nhà phê bình cũng cần đọc bằng tâm thế hậu hiện đại hoặc chí ít, thái độ khiêm cung học hỏi. Sự phán định vội vã và tùy tiện chẳng ơn ích gì mà còn tự tay đóng sập cửa vấn đề.
Một nền văn học là lành mạnh khi mọi trào lưu văn chương được đối xử công bằng. Thái độ công bằng cần thiết của độc giả chuyên nghiệp (nhà phê bình) là tránh đồng hóa mọi sáng tác dị mọ [không thuộc hệ mĩ học truyền thống] vào văn chương hậu hiện đại để chê trách nó. Họ cần từ bỏ thái độ chấp nê vào hàng đống bài thơ “hậu hiện đại” kém để qui trách trào lưu này “mang tính chất phá hoại”, dị hợm. Hệ mĩ học nào bất kì chỉ có thể bị vượt qua, khi phần vô ngôn chưa được nói của nó bị phơi mở trọn vẹn qua sáng tác ưu tú nhất thuộc hệ mĩ học đó.
Đọc hậu hiện đại
Hậu hiện đại không phải là một chủ nghĩa nghệ thuật thuần túy [như siêu thực chẳng hạn] mà là trào lưu văn hóa phát triển rất đa dạng với quy mô toàn cầu. Với thế giới phương Tây, hậu hiện đại đã qua ba thập kỉ, còn với Việt Nam nó là trào lưu đang vận động. Do đó, việc nó gây khó dễ cho người tiếp nhận không là điều lạ. Một trào lưu văn học – nghệ thuật mới nào bất kì muốn đặt nền tảng và phát triển cũng đòi hỏi sự nỗ lực của các đối tượng liên quan. Nhất là độc giả Việt Nam với bao ngáng trở: về tri kiến (chưa được chuẩn bị chu đáo từ các cấp học), về tinh thần, cả về truyền thống ít chịu tiếp nhận cái mới khi chúng vừa nẩy sinh.
Đòi hỏi trước tiên là: cứ tạm chấp nhận điều mình chưa hiểu, các sáng tác còn xa lạ với những gì thói quen ta lâu nay xem đó là thơ. Chấp nhận, và kiên trì truy tìm hành trình sáng tạo của tác giả, triết lí nằm ở bề sau sáng tác đó. Chỉ như thế thôi ta mới hi vọng thay đổi cách đọc, đồng thời có cơ hội thưởng thức các tác phẩm đương đại xuất sắc trên thế giới. Cả trong nước nữa, biết đâu!
Cũng cần nói thêm, hay của hậu hiện đại thôi còn là cái hay từng bài, thậm chí từng đoạn hay câu như thuở hiện đại, mà là hay cả cụm. Đôi khi, nó không cần “hay” nữa, mà chỉ đưa dẫn người đọc đi vào không khí tác phẩm – không khí hậu hiện đại.
Và, để làm gì, thi sĩ thời đại toàn cầu hóa?
“Và để làm gì, thi sĩ trong thời đại cô liêu khốn quẫn? Et pourquoi des poètes en temps de détresse? Hoelderlin từng thống thiết hỏi thế, hai thế kỉ trước. Hôm nay, nhà thơ hậu hiện đại làm gì?
Tính chất phi nghiêm cẩn unseriousness trong giọng điệu xuyên suốt sáng tác hậu hiện đại dễ gây lầm tưởng về một bỡn cợt vô trách nhiệm của thế hệ hư vô chủ nghĩa mới. Thế nhưng, quay cận cảnh bề tối truyền thống văn hóa dân tộc không đồng nghĩa với phá hoại truyền thống văn hóa dân tộc, nhìn phản biện lịch sử không là chống phá lịch sử, giễu nhại đại tự sự thì khác cả vực thẳm với hủy hoại mọi loại đại tự sự mà là đặt đại tự sự vào thế chông chênh để chúng tự soi lại mình bằng gương soi khác, từ nhiều chiều và dưới nhiều góc độ. Tất cả là để cùng tự thức self consciousness trong chân trời của tự do sáng tạo trong thế giới toàn cầu hóa, ở đó mỗi cá nhân được thể hiện trọn vẹn mọi khả năng của mình. Nếu xem là phá hủy, thì đó phải là phá hủy theo tinh thần hậu hiện đại. Phá hủy của triết học Shiva: Phá hủy là tiên đề của sáng tạo, phá hủy thúc đẩy sáng tạo, phá hủy để sáng tạo và, phá hủy chính là sáng tạo.
Họ làm thơ và nhập cuộc vào dòng chảy thời cuộc của thời đại nơi họ đang sống. Lạ, trước sự kiện trọng đại của đất nước: sự kiện Trường Sa – Hoàng Sa và bao nhiêu thời sự nóng khác, hầu hết nhà thơ hậu hiện đại đều có mặt và phản ứng nhanh nhạy. Châm ngôn “Suy tư toàn cục, hành động địa phương” là tính thực tiễn của hậu hiện đại. Nhà thơ hậu hiện đại Việt đã đáp ứng trọn vẹn tinh thần nhập cuộc chịu chơi đó. Người viết hậu hiện đại có thể theo dõi các trào lưu triết học mới nhất trên thế giới đồng lúc vẫn cặm cụi đi vào cuộc sống nông thôn lượm nhặt từng dòng ca dao, từng câu tục ngữ hoặc nihilism sẵn sàng mở cuộc điều tra nạn trộm cắp gà ngay tại làng mình sống. Không vấn đề gì cả!
C. Thõng tay đi vào chợ…
Ngay từ thế kỉ XIX, khi khám phá thấy các hệ thống triết học từ Socrate đến Hegel đều sai lầm, Nietzsche quyết lật đổ mọi giá trị để thiết lập bảng giá trị mới. Nhưng lật ngược siêu hình học vẫn là một siêu hình học (Heidegger). Giá trị mới vẫn cứ là “giá trị”. Bởi siêu hình học được xây dựng trên nền tảng tư tưởng [bằng] biểu tượng representational thought, nên mọi siêu hình học đều vừa là nhân đồng thời là quả của tinh thần siêu tự sự.
Tiếp bước nhưng khác Nietzsche, Heidegger nỗ lực đưa tư tưởng vượt qua siêu hình học, nghĩa là tư tưởng mà không tiền tưởng. Đây là bước ngoặt quan trọng trong truyền thống triết học Tây phương, mà cuộc gặp gỡ giữa ông và Suzuki vào giữa thế kỉ XX mang ý nghĩa tượng trưng. Nó báo hiệu một đối thoại giữa tư tưởng Đông phương và Tây phương một cách nền tảng.
Dù sao đi nữa, thái độ chối bỏ giải trình ngôn ngữ discourse, sự không tin vào những đại tự sự của hậu hiện đại hay hành vi phá chấp triệt để của Thiền tông với chủ nghĩa hư vô phân cách mong manh tơ trời. Làm sao phân biệt được Thiền sư với Thiền “giả” hay tinh thần bất tín nhận thức với thái độ phá hoại đơn thuần?
Đây là câu hỏi trọng đại, đòi hỏi một sự giải minh thích đáng.
Nhìn một cách tinh yếu, tinh thần hậu hiện đại tiềm ẩn trong truyền thống tư tưởng Đông phương, mà Tây phương – trong truyền thống của họ – đã khai mở theo cách thế khác, nói bằng ngôn ngữ khác. Nên có thể nói, hậu hiện đại đã chảy trong máu chúng ta. Vì vậy, kẻ sáng tạo hôm nay không cần thiết phải đi hết hiện đại [Tây phương] mới có thể tiếp cận hậu hiện đại.
Tính “hậu hiện đại” postmodernity luôn có sẵn trong người Việt Nam, hay ít nhất, ở miền Nam. Bên kia trời Tây, Nietzsche nói Thượng đế đã chết hay Hoàng hôn của những thần tượng thì ở phương Đông, Thiền sư Vân Môn còn quyết liệt hơn: Phùng Phật sát Phật; hay tại Việt Nam thôi, Tuệ Trung Thượng sĩ đã nghịch rất “hậu hiện đại”: “Phật là Phật, anh là anh. Anh đâu cần làm Phật, Phật đâu cần làm anh”(18). Song hành với tính nghi ngờ ngôn ngữ của các bậc trí huệ (Phật giáo), trong dân gian là: tính không tin truyền thông đại chúng (“nhà báo nói láo ăn tiền), tính không tin trung tâm quyền lực (“phép vua thua lệ làng,” “hơi đâu lo mấy chuyện cung đình”), tính giễu nhại những bài ca phổ biến, khôi hài, xỏ lá những chuyện xem như quan trọng, tính hầm bà lần (tên một tác phẩm của Khúc Duy).
Chủ nghĩa hậu hiện đại vào Việt Nam như là một cơ duyên và cơ hội.
Nhà văn Việt – với thế giới bị cho là ở ngoại vi; nhà văn hậu hiện đại, với Việt Nam còn bị xếp ngoài lề – hôm nay còn có quyền cho phép mình mặc cảm không? Văn học Đông nam Á có còn mãi nhận phận “vùng trũng” của văn học thế giới, và Việt Nam là một trong những vùng trũng đó không? Chắc chắn là không rồi! Nếu ta ý thức thẳm sâu rằng văn học không phân biệt dân tộc thiểu số hay đa số, giàu hay nghèo, nam/ nữ, trung ương/ địa phương, chính lưu/ ngoài luồng, trong nước/ hải ngoại,… Đã có nhiều phân biệt, nhưng đó là sự phân biệt giả tạo xuất phát từ mặc cảm giả tạo. Vượt qua mặc cảm, người nghệ sĩ ngoại vi khả năng đạp đổ vách tường ngăn trung tâm/ ngoại vi đầy tệ hại.
Thơ hậu hiện đại sẽ đi về đâu?
– Nó không về đâu cả! Thơ hậu hiện đại là trò chơi địa phương của những kẻ tự nguyện sáng tác ngoài lề trong thời đại toàn cầu hóa. Với tinh thần phá chấp triệt để qua tầm nhìn rộng mở và thái độ dân chủ tuyệt đối, thế hệ nhà thơ hậu hiện đại hôm nay là kẻ sáng tạo tiền vệ đang đổi mới thơ Việt, đổi mới cách viết và cách đọc, qua đó thúc đẩy công cuộc giải lãnh thổ hoá deterritorialize, giải quốc gia hoá denationalize và giải địa phương hóa delocalize văn học. Họ đang có đó, như một hiện tượng. Họ là hiện tượng. Hiện tượng của một nền văn học trong một xã hội còn nằm trong vùng tranh tối tranh sáng của tiền hiện đại và hiện đại.
Sài Gòn, 2-2-2009.
_________________________
Chú thích:
(1) Bài thơ sáng tác vào năm 1987, in lại trong Tô Thùy Yên, Thơ tuyển, Tác giả xuất bản, Hoa Kì, 1995.
(2) Xem Inrasara, “Nhập lưu hậu hiện đại không quá độ hiện đại hậu kì”, Tham luận tại Hội thảo Thơ Việt Nam đương đại, tại Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, TP Hồ Chí Minh, 19-2-2008; Talawas.org, 21-2-2008.
(3) Tạp chí Văn học do Nguyễn Mộng Giác làm chủ biên ra số đầu tiên vào năm 1988, sau đó là tạp chí Hợp lưu ra mắt số đầu tiên tại Hoa Kì vào tháng 10-1991, do Khánh Trường chủ biên, đến năm 2004, vai trò này được chuyển sang Đặng Hiền. Tạp chí Thơ, do nhà thơ Khế Iêm sáng lập và chủ biên ra số đầu tiên vào năm 1994 tại California, Hoa Kì; đến năm 2004, nó được chuyển giao cho nhà thơ Đỗ Kh.; tạp chí Việt do Phan Việt Thủy làm chủ nhiệm, chủ bút là Nguyễn Hưng Quốc, ra số đầu tiên tại Úc vào đầu năm 1998, đến số 8, 2001 thì đình bản, sau đó tạp chí được chuyển sang website Tienve.org. Cũng phải kể thêm một số tạp chí khác có vai trò không kém quan trọng như: Thế kỉ 21, Văn, Diễn đàn Paris.
(4) Gieo & Mở, Thơ và tiểu luận, NXB Đồng Nai in được 2 tập, 1995-1996; Thơ Tự do, thơ in chung, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999; Tuyển tập Văn chương, NXB Thanh niên, ra tập đầu tiên vào 1999, được 8 tập.
(5) Nguyễn Quốc Chánh, Của căn cước ẩn dụ (2001).
(6) Các tác phẩm của Nhóm Mở Miệng, NXB Giấy Vụn ấn hành, in photocopy là: Vòng tròn sáu mặt (tập thơ in chung gồm: Bùi Chát, Lý Đợi, Khúc Duy, Trần Văn Hiến, Hoàng Long, Nguyễn Quán) (2002), Mở Miệng (in chung 4 tác giả) (2002), Khoan cắt bê tông (gồm 23 tác giả, 2005) và 47 tác giả có jì dùng jì có nấy dùng nấy (2007); Bùi Chát: Xáo chộn chong ngày, (2003), Cai lon bo di (2004), Tháng tư gẫy súng (2006), Xin lỗi hổng chịu nổi (2007); Lý Đợi: Bảy biến tấu con nhện (2003), Trường chay thịt chó (2005); Phan Bá Thọ: Chuyển động thẳng đứng (2001), Đống rác vô tận (2004); Đinh Linh: Lĩnh đinh chích khoái (2007), Vũ Thành Sơn: 40km/h (2007).
(7) Evan.Vnexpress.net đã có công lớn trong việc giới thiệu các khuôn mặt thơ mới, sau đó họ đã tự khẳng định mình. Nhưng tiếc là sau năm 2004, website này đã xóa hầu hết sáng tác mang tính cách tân và “ngoại vi” cùng các tác giả của chúng.
(8) Bàn tròn văn chương là hoạt động ngoại biên của Ban sáng tác trẻ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam do Inrasara làm chủ trì, kì thứ nhất tổ chức vào tháng 10-2006 và kì thứ 7, kì cuối cùng vào tháng 4-2007. Đúng ra BTVC có xảy ra thêm kì 8 nữa, nhưng bởi kì này BTVC không có văn bản sơ khởi (là cở sở để các thành viên thảo luận) chuẩn bị cho BTVC và nhất là sau đó, không có “Biên bản Bàn tròn văn chương” là văn bản cuối cùng của mỗi kì, nên tôi không kể vào hệ thống này. Hội luận văn học Việt Nam với Ban chủ trương gồm: Nam Dao, Phạm Xuân Nguyên, Đỗ Quyên, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Đức Tùng bắt đầu từ đầu năm 2008 là bàn tròn trao đổi trên mạng về văn chương tiếng Việt, thu hút nhiều nhà văn trong và ngoài nước tham dự. Sau 2 chủ đề HLVHVN đã ngưng hoạt động.
(9) Nedim Gursel, “Chữ nghĩa của lưu đày, lưu đày của chữ nghĩa” – Talawas.org, 2003.
(10) Nguyễn Thị Hoàng Bắc, 26 nhà thơ Việt Nam đương đại, Tân Thư xuất bản, Hoa Kì, 2002.
(11) Inrasara, “Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố ‘nữ’”, Song thoại với cái mới, NXB Hội Nhà văn, H., 2008, tr. 92-120.
(12) Phần này được tổng hợp từ các cuốn sách:
– Hoàng Ngọc-Tuấn, Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua thực tiễn sáng tác và góc nhìn lí thuyết, California: Văn Nghệ, Hoa Kì, 2002; Nguyễn Hưng quốc, Văn học Việt Nam, từ điểm nhìn h(ậu h)iện đại, Văn nghệ, Hoa Kì, 2000; Văn học hậu hiện đại thế giới, những vấn đề lí thuyết, NXB Hội Nhà văn, H., 2003.
– J.-F.Lyotard, La Condition postmoderne: Rapport sur le savoir, Editions de Minuit, Paris, 1979; Fredric Jameson, Postmodernism or, the Cultural Logic of Late Capitalism, Durham: Duke University Press, 1993; Richard Appignanesi – Chris Gattat, Introducing Postmodernism, Icon Books UK – Totem Books USA, 2006.
(13) Trích trong Vỉa từ – Tạp chí Hợp Lưu, số 72
(14) “Hiện thực thậm phồn” và “văn chương của sự phong dật là chữ của Hoàng Ngọc-Tuấn dịch thuật ngữ hyper-reality và the literature of replenishment. Xem “Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại”, Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua Thực Tiễn Sáng Tác và Góc Nhìn Lý Thuyết, NXB Văn Nghệ, California, Hoa Kì, 2001.
(15) Khế Iêm, “Chú giải về thơ Tân Hình Thức”, Tạp chí Thơ, số 18, mùa Xuân 2000.
(16) Khánh Phương trả lời thư điện tử: Maivanphan.com, 2007.
(17) Nguyễn Hưng Quốc, “Văn bản và liên văn bản”, Tienve.org, 2008: “Trong phạm vi sáng tác, chủ nghĩa hậu hiện đại có hai đặc trưng nổi bật nhất là tính phản tỉnh và tính liên văn bản. Tính chất phản tỉnh dẫn đến thủ pháp siêu hư cấu (metafiction) và tính chất liên văn bản dẫn đến thủ pháp cắt dán (collage) hay nhại (pastiche). Giễu nhại (parody) có thể được xem là hình thức tổng hợp của cả hai tính chất tự phản tỉnh và liên văn bản, đó là “thi pháp của sự mâu thuẫn” (poetics of contradiction)”.
(18) Nhật Chiêu, Nguyệt san Giác ngộ, số Xuân 2009: Cuộc trò chuyện của Thái hậu và Tuệ Trung Thượng sĩ: – Anh tu thiền mà ăn thịt thì làm sao thành Phật? – Phật là Phật, anh là anh. Anh đâu cần làm Phật, Phật đâu cần làm anh (- A huynh đàm thiền thực nhục, an đắc Phật dã? – Phật tự Phật, huynh tự huynh. Huynh dã bất yếu tố Phật, Phật dã bất yếu tố huynh).
Các bài tham khảo khác:
– Nguyễn Hưng Quốc, “15 năm văn học lưu vong, bản chất và đặc điểm”, Tạp chí Văn Học, Hoa Kì, số 47 & 48, 1-1990.
– Chân Phương, “Cái mới đi về đâu?”, Tạp chí Việt, Australia, số 3, 1999; “Thơ Việt đi về đâu?”, Tạp chí Hợp Lưu, số Mùa Xuân 2005.
– Nguyễn Vy Khanh, “Về Thơ Hôm Nay”, Demthu.lonestar.org, 10-2003.
– Trần Vũ, “Hợp Lưu -12 năm trang tôn kinh huyền hoặc hậu hiện đại”, Tạp chí Hợp Lưu số 67, tháng 10 & 11, 2002.
– Nguyễn Hương, “Văn Chương Di Dân Việt tại Hoa Kỳ”, Damau.org, 2006.
– Bùi Vĩnh Phúc, “Một cách nhìn về 13 năm văn chương Việt ngoài nước (1975-1988)”, Damau.org, 30-8-2008.
VN:F [1.9.22_1171]
please wait…
Rating: 9.5/10 (2 votes cast)
VN:F [1.9.22_1171]
Rating: +1 (from 1 vote)
,
9.5
out of
10
based on
2
ratings