Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng Hậu (1216 – 1248) – Chốn Thiêng
Giới thiệu
Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu (1216 – 1248), là vị hoàng hậu thứ hai của Trần Thái Tông – vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần. Bà là thân mẫu của Trần Thánh Tông Trần Hoảng, Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang và Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải, theo đó còn là bà nội trực hệ của Trần Nhân Tông Trần Khâm.
Tiểu sử
Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu có tên húy là Oánh, là con gái cả của Lý Huệ Tông Lý Hạo Sảm, mẹ là Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung – con gái Trần Lý và là cô ruột của Trần Thái Tông Trần Cảnh. Dưới bà có một người em gái là “Chiêu Thánh Công chúa”, tức Lý Chiêu Hoàng. Năm Bính Tý, Kiến Gia năm thứ 6 (1216), mùa hạ, tháng 6 (âm lịch), Lý Oanh được sinh ở bãi Cửu Liên, tước phong ban đầu là Thuận Thiên Công chúa.
Khi ấy, vào đầu năm Bính Tý, mẹ của Thuận Thiên là Trần Thị vừa được sách phong làm Thuận Trinh Phu nhân do đang mang thai. Căn cứ thời gian sách phong (tháng giêng năm ấy) cùng khoảng thời gian bà được sinh ra, thì thời điểm Trần Thị được sách phong là lúc bà đã mang thai Thuận Thiên vào tháng thứ 3, nhưng vì sự thù ghét của Đàm Thái hậu mà hai mẹ con Thuận Thiên suýt bị hại thảm. Vào lúc ấy, Thái hậu họ Đàm coi anh thứ của Trần Thị là Trần Tự Khánh như giặc cướp, nói Trần Thị là nội ứng của giặc nên tìm mọi cách để giết hại, nhiều lần còn ra tay ép uống thuốc độc chết. Để cứu mẹ con Thuận Thiên, Lý Huệ Tông đã cùng Trần Thị trốn đến chỗ Trần Tự Khánh. Bà được được sinh ra ngay ở bãi Cửu Liên, nơi đóng quân của Trần Tự Khánh.
Sau khi sinh ra Thuận Thiên, thì cuối năm ấy, vào tháng Chạp (âm lịch), Trần Thị chính thức trở thành hoàng hậu. Không rõ khoảng thời gian nào mà Thuận Thiên Công chúa được gả cho người anh em họ ngoại là Phụng Càn vương Trần Liễu – con trai cả của Nội thị Phán thủ Trần Thừa, anh trai lớn của mẹ bà. Trong thời gian ở cùng Trần Liễu, bà Thuận Thiên sinh được ít nhất một người con trai, tức Vũ Thành vương Trần Doãn.
Từ chị dâu thành Hoàng Hậu
Sau khi Chiêu Hoàng nhường ngôi để trở thành “Chiêu Thánh Hoàng hậu”, chồng của Thuận Thiên là Liễu khi ấy đảm nhiệm làm chức Thái úy nhưng hữu danh vô thực, sau một khoảng thời gian thì Liễu được chọn làm phụ chính và được em trai đặc biệt sách phong danh xưng “Hiển Hoàng” – một danh vị cho thấy địa vị của Trần Liễu gần với Trần Thái Tông. Sau đó, Trần Liễu vì phạm tội cưỡng dâm cung tần triều Lý nên bị giáng làm “Hoài vương“. Thời gian này dẫu địa vị Trần Liễu có ra sao, Thuận Thiên vẫn là “công chúa”, mà tước vị công chúa trong hàng ngoại mệnh phụ luôn là tước vị độc lập cao nhất, chỉ sau các hậu phi của nhà vua.
Năm Đinh Dậu, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 6 (1237), Thuận Thiên Công chúa được lập làm hoàng hậu, em gái bà là Chiêu Thánh bị phế truất danh hiệu hoàng hậu mà trở lại địa vị công chúa. Bấy giờ Chiêu Thánh không có con, mà Thuận Thiên đã có mang được 3 tháng. Thái sư Trần Thủ Độ và Thiên Cực công chúa (tức Linh Từ Quốc mẫu) bàn kín với Thái Tông là nên mạo nhận lấy để làm chỗ dựa về sau, cho nên có lệnh ấy. Tức giận, Trần Liễu hội quân ra sông Cái làm loạn nhưng thua trận, thuộc hạ đều bị Trần Thủ Độ ra lệnh giết chết tất cả.
Sau cùng Trần Thái Tông niệm tình nên ban các vùng đất An Phụ, An Dưỡng, An Sinh, An Hưng và An Bang làm trang ấp cho anh cả, lại cải phong vị hiệu làm “An Sinh vương“. Sau khi mất, An Sinh vương Liễu được truy phong làm “Khâm Minh Đại vương“. Như vậy, Thuận Thiên, từ vị trí “chị dâu” kiêm “chị vợ”, nay trở thành người vợ mới của Trần Thái Tông. Em gái bà là Chiêu Thánh không rõ hành tung cụ thể, chỉ biết bà vẫn giữ địa vị là một công chúa hoàng thất đến khi qua đời, hạ giá lấy Lê Phụ Trần và sinh được 2 người con.
Sau khi về làm vợ của Trần Thái Tông, Thuận Thiên sinh ra đứa con vốn là của Trần Liễu, đứa bé sinh ra tức Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Vì thân phận đặc biệt, Quốc Khang được Trần Thái Tông nhận làm con trưởng, là anh cả trong tất cả những người con của Thái Tông, thế nhưng cuối cùng lại không có quyền kế thừa ngôi vị.
Vào năm Canh Tí, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 9 (1240), vào ngày 25 tháng 9 (âm lịch), Thuận Thiên Hoàng hậu sinh “Hoàng đích trưởng tử” tên gọi Trần Hoảng, lập tức được lập làm trữ quân, tức tương lai là Trần Thánh Tông. Sang năm sau, là năm Tân Sửu (1241), khoảng tháng 10 (âm lịch), bà sinh ra tiếp vị hoàng tử thứ hai là Trần Quang Khải.
Qua đời
Năm Mậu Thân, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), tháng 6, Thuận Thiên Hoàng hậu qua đời, hưởng dương 32 tuổi.
Trong sách Toàn thư, địa điểm mà bà Thuận Thiên được an táng cũng không ghi rõ ràng, có lẽ là hợp táng với Thái Tông trong Chiêu lăng.
Đền thờ
Thuận Thiên Hoàng Hậu được dân lập đền thờ:
- Di tích đình Quan, đình Đụn ở xã Kim Chung, Hoài Đức, Hà Nội thờ Trần Liễu và Hoàng hậu Thuận Thiên.
- Di tích đền Thái Vi ở hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình) thờ vua Trần Thái Tông và Hoàng hậu Thuận Thiên.
Tham khảo
- https://vi.wikipedia.org/wiki
- https://trainghiemsong.vn/so-phan-eo-le-cua-hien-tu-thuan-thien-hoang-hau/
Chấm điểm