DƯƠNG TƯỜNG, BẢN NHÁP CHIỀU TƠ LIỄU

Nguyễn Đức Tùng

Trong khi chúng ta quay đi, thế giới thay đổi. Những liên kết nhảy vọt trong thơ Dương Tường tạo ra các ảo ảnh. Đó là chuyển động nhanh từ một hình ảnh này đến hình ảnh khác; hai hình ảnh, rời nhau, và khoảng cách giữa chúng, tập hợp ba ấy tạo ra nội dung mới và ý tưởng mới.

Vẽ nhăng trên tường ở Paris

Ngớ ngẩn thăng hoa

Thơ ca cứt đái

Âu yếm đầu đường xó chợ

 

Vẽ nhăng trên tường ở Paris

Tình sử khoác vỏ ngoài tục tĩu

(bản dịch của Phạm Toàn)

Trong một bài thơ của Dương Tường, có sự chuyển động phức tạp, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai và ngược lại, từ hiện thực đến ảnh trong gương và ngược lại, và cuối cùng tác giả lăm le vượt qua biên giới giữa lời và ngoài lời. Thơ Dương Tường là một cố gắng, đối với nghĩa thì đi ra ngoài nghĩa đến chữ, tức đến âm, và đối với chữ, thì đi ra ngoài chữ, hay ngoài lời, tới cái không lời.

Tôi đâu chọn

rì rào

mái đầu thương

ngày r

          ụ

          n

          g

dòng đau

trôi một mùa xác ve sầu

Ngày r hay ngày (rụng) là một cố gắng phi lời. Dương Tường đặt cược đời mình vào đó, sự vượt qua. Thơ ông  không phải để đọc lớn. Mặc dù là một thứ thơ âm bồi, như tác giả tự gọi, tức nặng về âm thanh, con âm chứ không phải con chữ, thơ ấy không dùng để đọc lớn. Bạn chỉ nên đọc thầm hay đọc trong im lặng.

Âm thanh của thơ vang lên trong im lặng. Khả năng cắt rời hiện thực và liên kết chúng lại đòi hỏi tài năng ngôn ngữ lẫn hội họa, mà tôi tin ông có hai thứ ấy. Hiện thực tuy thường xuyên dịch chuyển nhưng không biến mất, chúng để lại ảnh trong gương, nơi đánh dấu sự trở lại. Đó là cách nói khác để mô tả sự lơ đãng có chủ đích. Lơ đãng chọn lọc.

Les graffiti de Paris

j’en cueuille par ci et par là

c’est comme des tulipes écloses

dans la fange

je les mets au vert

et en hume le bouquet

Những hình vẽ nhăng trên tường ở Paris

ta lượm đây một đóa kia một đóa

như tuy-lip nở trong bùn

nâng niu chăm chút

vục mặt hít hà

(bản dịch của Phạm Toàn)

Dương Tường không phải là người mô tả hay nhận xét luân lý, bài thơ của ông không hướng tới kết luận có ý nghĩa xã hội, nhưng chính sự buông thả ấy làm nên khí chất nghệ sĩ. Tuy vậy, sự hiện diện của chính tác giả trong bài thơ, như một nhân vật, sự hiện diện ấy làm đầy ý nghĩa của bài thơ, như khi có một người bạn thân đến thăm bạn, chỉ cần người ấy bước qua ngưỡng cửa và ngồi xuống, không nói năng, không gian của buổi chiều của bạn đã được làm đầy.

Bởi tình yêu và sự thương xót. Bởi lòng can đảm. Sự tỉnh thức của Dương Tường sáng sủa và mạnh mẽ. Hãy coi:

Je me nourris

De l’amer de l’amour

Tôi nuôi sống mình

Bằng chất đắng tình yêu

(bản dịch của tác giả)

Chữ l’amer, l’amour chơi chữ, rất khó dịch. Tính riêng tư trong thơ Dương Tường cao, sự trầm tư, hình ảnh chắt lọc, làm cho thơ ấy thành một thứ để ngẫm đi ngẫm lại, đôi khi trong một số bài thơ ngắn đó là các thứ cây cảnh bonsai. Hoặc Haiku. Có thể đời sống nơi Dương Tường viết, từ những năm trẻ tuổi, là một xã hội thiếu tự do đến mức mà sự khôn ngoan và sự hèn nhát thực ra là một, và nhà thơ yêu quý tự do không thể không phản kháng. Như thế, trong văn chương, sự hài hước và phóng túng, các hình thức vô thức của phản kháng, cần thiết hơn bao giờ hết. Dương Tường giữ trong thơ những huyền thoại, ông nuôi dưỡng chúng, làm cho chúng lớn lên, ngày ngày, lặng lẽ, gần như cô độc, nên nhiều người không biết. Tôi có cảm giác rằng ngay cả một số những người gần gũi không phải bao giờ cũng chia sẻ những quan tâm đặc biệt của Dương Tường. Một người dễ mến, giao thiệp rộng, đa tài, can đảm  trong những hoàn cảnh khắc nghiệt, thấy như vậy là đúng về Dương Tường, nhưng không đủ. Tôi không biết rõ đằng sau những tính cách ấy là gì nhưng có cảm giác về một hiện diện khác, mơ hồ, mong manh, sầu muộn. Một thứ triết lý ngoài lời cần được chiếu rọi vào thơ chăng. Nếu bạn từng có một tâm trạng như nỗi buồn, cuộc chia ly, sự thất vọng, một điều gì bạn chẳng muốn nói ra, bạn đọc thầm một câu như thế này:

Bỗng nông nổi chiều tình si giáng thứ

Đối với những người đang tự hài lòng với mình, câu thơ ấy có vẻ không đáng chú ý.

Nhưng đọc nó, trong tâm trí tôi thường hiện ra buổi chiều xế nắng, ngõ hẻm dài sâu yên tĩnh, phía sau những quán tạp hóa bán trà, đường đen, thuốc bắc, những gánh hàng xén, những cô hàng xén, trong một căn nhà khá rộng, khi tôi bước vào, Dương Tường ngồi đó, chờ sau chiếc bàn nhỏ, thấp, ấm trà nguội, hộp thuốc lá, đón tôi, đến một mình. Không gian của Dương Tường rộng và huyền ảo. Câu thơ trên đây đúng đến nỗi không thể thay được một chữ nào. Cũng như:

Bản nháp chiều tơ liễu

Chỉ có ai lang thang bên hồ, nhìn mặt nước cau lại tang thương liễu rủ, mới đọc thế. Chúng ta là những bản nháp của lịch sử. Những bản nháp của tình yêu của hoài niệm. Một bài thơ khác.

Thôi

lạy mẹ

kiếp phù sinh

mea culpa

tôi đã đánh hỏng đời mình

Đánh hỏng một đời mà nhẹ như không.

Nhiều người biết mấy câu thơ ấy, thật ra không phải là đoạn thơ xuất sắc, nhưng chúng xuất hiện như lời kinh, hay tuyên ngôn, hay cứu chuộc. Đó là sự cầu nguyện xuyên qua bài hát, sự đối diện ở cuối đường, quay nhìn lại. Thay vì chỉ ghi nhớ, kí ức của Dương Tường phản chiếu kinh nghiệm, suy tưởng, là một hồi ức suy tưởng, giúp tác giả và người đọc dối diện với tình cảnh không lui bước được: sự tổng kết đời mình trước cái chết. Cuộc đời Dương Tường cũng như bài thơ dài, gồm nhiều câu ngắn, nhiều chỗ ngắt dòng kì lạ, bất ngờ, chuyển giọng. Bài thơ của ông như hành trình, mỗi lần đọc một lần thay đổi. Được viết từ một nơi chốn mà người đọc chưa đặt chân tới, không phải vì từ ngữ của ông quá lạ hay quá mới, mà vì chúng đã được làm thay đổi.

Tôi mư ư ưa

Chữ mưa như thế chỉ có ở ông. Một trong những nhà thơ dành nhiều suy tư cho chữ và nghĩa, cho chữ và âm, cho lời và ngoài lời. Trong thơ Việt Nam, ngay từ những năm 60, và ngay cả hiện nay, đó là một trường hợp hiếm hoi, quý báu.

When it happens you are not there

 

O you beyond numbers

Beyond recollection

Passed on from breath to breath

Given again

From day to day from age

To age

Charged with knowledge

Knowing nothing

(To the Words, W.S. Merwin)

Khi điều ấy xảy ra bạn không ở đó

 

Ồ bạn ta bên kia những con số

Đằng sau kí ức

Truyền từ hơi thở này đến hơi thở khác

Ngày này sang ngày khác thời đại này

Sang thời đại khác

Đầy ắp kiến thức

Mà chẳng biết chi

Gần đây có dịp đọc lại Dương Tường, cả trong thơ lẫn dịch tiểu thuyết, tôi thấy những tác phẩm của ông là một tự làm trẻ lại, là lời ca ngợi đối với hoang vắng, thiếu sót, lời nhắc nhở đối với lầm lỗi và lãng quên của Hà Nội, một đời người, của một đất nước. Nếu cần tìm một nhà thơ có tính duy mỹ cực điểm mà vẫn lăn lộn trần thế, tôi nghĩ Dương Tường. Đó là người có cái nhìn viễn kiến ngay trong thời buổi bị kiểm soát, đàn áp, vượt lên khỏi hoàn cảnh của mình, của Hà nội nền nếp và chật hẹp, suy nghĩ xa, như một người đi qua hoang tàn của lịch sử, tìm kiếm hơi thở của đời sống mới. Dương Tường là một trong những tâm hồn nghệ sĩ tự do nhất mà tôi được biết, về mặt xã hội là người sống trung thành với lập trường của mình, về mặt cá nhân là một người phóng khoáng không câu thúc, người trí thức được đào tạo từ thời tiền chiến dưới những ảnh hưởng tốt đẹp của văn minh Pháp, ngày nay tất không còn thấy. Giữa những bề bộn đời sống ông thường trở lại với mẩu kết quả xét nghiệm đã bị vò nát.

Ở đây tất cả đều tủn mủn

Chỉ riêng khổ đau là hoành tráng

Sự căng thẳng của xã hội hôm nay, áp lực của thời gian, sự giả dối, sự ganh đua, dẫn đến tâm trạng lo âu, xao xuyến, bồn chồn ở những người trẻ và ở tất cả chúng ta. Mỗi cá nhân bị xé nhỏ thành nhiều mảnh, bị giằng xé bởi quá khứ và tương lai, các mâu thuẫn bên trong dân tộc, ảnh hưởng của cuộc nội chiến Nam Bắc hai mươi năm, còn lâu dài chia cắt chúng ta. Thơ Dương Tường hầu hết ở thể tự do, nhưng tính âm nhạc cao, chuyển hướng bất ngờ, cách gieo vần rộng, một số ý tưởng đẹp và mới, nhưng không hoàn toàn táo bạo, nổi loạn, đập vỡ. Khác với Trần Dần, chẳng hạn.

Tôi vẫn mưa hằng hà

nhật nguyệt

có hy vọng nào đợi chờ nào khổ đau

nào khắc khoải nào mê muội nào

không đẫm

jọt

 

mưa tôi?

Thơ trữ tình Dương Tường nói về tình yêu, mất mát, hy vọng, trong điệu thức suy tưởng. Niềm ao ước của ông là mang lãng quên trở lại với ý thức, tuổi trẻ yêu dấu ra khỏi bóng tối. Thơ ông là khúc bi ca hướng tới vĩnh cửu, giữ cho cái chết được ở lại giữa chúng ta, làm cho những gì không còn sẽ được sống lại. Giá trị của thơ ông trước hết không phải ở tu từ, mặc dù đó là thơ nặng về “chữ”, mà ở khả năng tư duy, sự phán xét, sự tiên đoán, là thái độ của một trí thức giữa thời kì băng hoại giá trị. Mặc dù mới, và không cổ điển, chúng vẫn thể hiện tính liên tục như tấm vải dệt bền bỉ, không đứt đoạn. Khả năng của nhà thơ là kết hợp những thể thơ cũ giàu âm điệu và khuynh hướng văn xuôi hóa, cụ thể hóa, thơ thị giác. Khả năng dùng chữ của ông là độc đáo với kĩ thuật lập lại, kĩ thuật song song. Đó cũng là một trong những nhà thơ đòi hỏi lối đọc liên văn bản, với nhiều tham chiếu.

Đường kí ức ngàn-lẻ-một nẻo miên man

đâu cũng mê cung tôi đi chân rớm máu tươi

những kỉ niệm hoang vu và chới với những

hoang tưởng man dại   thậm chí hun hút rợn

chiều psychedelic nhầy nhụa đàn bà

Dương Tường là người nội tâm nhưng sẵn sàng xuất hiện nơi công cộng, cởi mở, hai khía cạnh ấy đều có thể được quan sát. Dương Tường viết thơ tình cho đám đông nhưng thơ ấy không thể đọc trước đám đông mà chỉ nên đọc trong phòng vắng. Một người giỏi ngoại ngữ, đọc sách nhiều, nhưng có tâm hồn đông phương, sẽ sinh ra một loại thơ phảng phát thơ Haiku Nhật Bản, ngắn gọn, nhiều hình ảnh, chú trọng về mô tả, ghi nhận. Trong thơ ông, chỉ đôi khi mới thấy phần cảm xúc nổi lên. Mặc dù có khuynh hướng duy mỹ, thơ ấy cần được đọc dưới góc nhìn lịch sử- văn hóa.

“Thị trấn bê bết tựa sạp hàng thịt/ anh góp vào đổ nát hai cái răng cửa/ Tảng sáng/ trận địa pháo/ lạc vào một con ngan bị thương”

Mặc dù chịu ảnh hưởng của phương Tây, có lẽ truyền thống đông phương ấy đã làm Dương Tường đến gần hơn với truyền thống thơ truyền khẩu, một loại thơ trước chữ. Thơ ngoài chữ. Từ thơ ngoài chữ mà thành thơ ngoài lời, có thể chỉ là một bước. Trong sự chuyển tiếp ấy, có thể nhận thấy đặc tính của các điển tích, các giai thoại, sự tham chiếu, hay những mảnh nhỏ của chúng. Đọc Dương Tường vì vậy bao giờ cũng là một lối đọc liên văn bản của một người có trình độ hiểu biết cao hơn trung bình.

bởi lẽ mình với cậu
chưa hề biết nhau
nên mình đến

bởi lẽ cậu bỏ lại mẹ cha cùng
người hôn ước
và mình cũng từng giã biệt vợ con
nên mình đến

bởi lẽ tình yêu mạnh hơn thù hận
và có thể bắc cầu qua mọi đại dưng
nên mình đến

bởi lẽ cậu không trở lại
còn mình đã có ngày về
nên mình đến

(bài 1967)

Một số bài thơ của ông gần với kí họa, với phác thảo, hơn là gần với hội họa, vì tính chất không hoàn tất của nó, một cách cố ý, vì tính chất gãy vỡ, vì sự xác định đường biên giới hơn là bản thân màu sắc. Tôi nghĩ đọc Dương Tường cần một trường thẩm mĩ riêng, tuy không hoàn toàn khác với trường thẩm mỹ chúng ta dùng cho các nhà thơ cùng thời của ông, trong nhóm nhân văn giai phẩm, nhưng cũng không phải đồng nhất. Sự tồn tại của một người không làm biến mất sự tồn tại của một người khác, nhưng sự tồn tại ấy được tăng cường bởi sự chú ý, sự dấn thân, sẽ tạm thời làm biến mất trong trí nhớ sự hiện hữu của người khác. Đó là ý nghĩa của câu thơ sau đây:

Những hình vẽ nhăng trên tường Paris

ta lượm đây một đóa kia một đóa

như tuy-lip nở trong bùn

nâng niu chăm chút

vục mặt hít hà

 

Vẽ nhăng trên tường ở Paris

ngớ ngẩn thăng hoa

thơ ca cứt đái

âu yếm đường xó chợ

 

Vẽ nhăng trên tường ở Paris

tình sử khoác vỏ ngoài tục tĩu

thơm mùi nồng cống rãnh

và đôi khi vang vọng xa lắc những thiên đường đã mất

 

Vẽ nhăng trên tường ở Paris

ta lạ gì đâu

bàn tay này từng vẽ thế

Có thể nhờ thế mà, trong những giai đoạn đen tối nhất của thơ ca, sống một cách khó khăn dưới những nghi ngờ, Dương Tường đã không để cho nỗi buồn rầu và sự đông đặc đánh bại mình. Lòng tin yêu ấy, sự say mê sống có phần ngây thơ ấy, là những búp hoa trên cành trong rừng thơ ca tiếng Việt, mỗi khi chúng ta bất chợt đi qua, ngoái lại.

Thơ Dương Tường nhiều tiểu sử nhưng không nhiều hoài niệm. Đó là một loại thơ ở thì hiện tại, trong sáng, nhẫn nhục, đầy niềm tin vào sự sống. Một ngôn ngữ nhiều cảm xúc nhưng không quá mẫn cảm. Kẻ đã sống qua nhiều thời kỳ, đôi khi dưới đáy, nhưng không làm nhân chứng, mà chỉ là kẻ ghi nhận bên lề của cuốn sách lịch sử đau thương của dân tộc. Điều gì đúng thật đối với trần gian cũng đúng với thiên đường.

Serenade 1

 

Những ngón tay mưa

dương cầm trên mái

 

những ngón tay mưa

kéo dài tai quái

một nỗi nhớ vô hình

nhạt nhòe đường xanh

đêm lập thể

 

Những ngón tay mưa

truồi theo phố lạnh

màu nâu cảm tính

đường parabole tư duy

điệp khúc u hoài

những chuyến tàu đi

 

Những ngón tay mưa

trời sao bạc

tím mộng Schercherazade

đêm ngàn-lẻ-hai

Một điều gì đó trong chúng ta một hôm thức dậy, như đứa trẻ vươn vai hít thở khí trời. Sự có mặt của yếu tố siêu thực, và cả sự thần bí, bí nhiệm, chứng tỏ loại thơ nặng về lời ấy là một loại thơ có nhiều ý nghĩa. Ngôn ngữ tạo ra sức hấp dẫn lớn nhất trong thơ Dương Tường nhưng bên dưới những chữ, có một điều gì khác nữa, có người gọi là nội dung có người gọi là ý nghĩa, nội dung kí hiệu, bởi vì thực ra tác giả nếm trải một đời sống hoàn toàn hiện thực, đi qua những vui buồn thật, cái tốt và cái xấu cụ thể, sự cao thượng và lỗi lầm có thể nhìn thấy, trong đôi mắt tinh anh của ông. Niềm vui thú cao nhất trong thơ Dương Tường là được sống, yêu đời, khao khát sống. Thơ ông không có gì liên quan đến (những) cuộc cách mạng hay kháng chiến mà có lúc ông đã từng dự phần và có lẽ chưa hề thách thức giá trị của chúng. Ai cũng biết chúng ta bị phản bội, những giấc mơ bị phản bội, ai cũng biết thế giới đầy đau thương và lầm lẫn, ai cũng biết chúng ta sẽ hạnh phúc hơn nếu có tự do. Nhưng Dương Tường không phải là nhà tranh đấu, ông thực sự là một nghệ sĩ từ trong ra ngoài. Một nghệ sĩ thực sự trước hết phải ca hát. Và nói như Bertolt Brecht, trong thời kỳ đen tối, con người vẫn hát, và hát về những điều đen tối. Chúng ta cũng có thể thêm rằng, Dương Tường còn hát cả về tình yêu trong những điều đen tối. Vì vậy thơ ông sẽ còn được nhắc đến như một trong những cánh cửa sau của ngôn ngữ Việt Nam, nửa thành công nửa thất bại, không hứa hẹn một điều gì. Sự quyến rũ chết người ấy làm nên năng lượng của sự sống. Dương Tường là một phần của năng lượng ấy, đạm bạc và rực rỡ, chán chường nhưng không mệt mỏi, dịu dàng nhưng có sức xuyên thấu qua những ngăn cách giữa người Việt và người Việt, giữa người Việt và thế giới, giữa thơ ca bên trong và bên ngoài ngôn ngữ. Thơ ngoài lời, theo cách gọi của Dương Tường, có những nguồn gốc khác nhau, nhưng chính nhà thơ cho rằng nguồn gốc ấy có lẽ bắt đầu từ Apollinaire với các bài thơ thị giác mà Châu Diên đặt tên là thư đồ thi. Cũng theo Châu Diên ở Việt Nam chi có ba nhà thơ làm thơ ngoài lời là Trần Dần, Dương Tường, phần nào Đặng Đình Hưng. Tập thơ Đàn của Dương Tường là tiêu biểu cho khuynh hướng này. Là một người yêu mến chữ, tất nhiên ông không xa lạ gì với phép tu từ, nhưng các bài thơ của ông phương pháp ấy được ẩn kín.

Đêm đầu tiên tân hôn lại

vợ anh giảng

những chưa biết trong

tình yêu

Sự thú vị trong mạch đi của bài này nằm ở ý tưởng bất ngờ, một hình thức chơi chữ sang trọng. Những thú chưa biết trong tình yêu thì có nhiều, một người đàn ông tha hồ tưởng tượng. Mà dừng lại ở đó cũng được. Như ông lại viết:

những chưa biết trong

tình yêu

bằng không nói

người đàn bà ít mồ hôi

ba năm chờ

Hài hước trở thành trữ tình. Một người làm thơ đọc đến đây sẽ tự hỏi, thế rồi bài thơ sẽ kết thúc như thế nào? Nhiều người, nhất là những người mới viết sẽ kết thúc bằng tình yêu đôi lứa, bằng tình dục, bằng sự hồi tưởng về ba năm gió mưa đâu đó. Dương Tường kết thúc thế này:

cười vô lối

cửa sổ sóng sánh tiếng

huýt sáo một người

đi chơi đêm

Như thế là từ năm 1966, ngay trong chiến tranh, trong sự vây khổn, đày đọa, có một nhà thơ đã bình thản đi rất xa trên con dường cách tân ngôn ngữ, dùng phép sắp xếp mới của ngôn ngữ mà góp phần hình thành các ứng xử văn hóa mới và trang nhã.

Ba mươi hai năm

Ba mươi hai lối chân đưa

lầm lũi

thời gian như một cái nhìn
vàng

Tôi vẫn phi-tôi

vẫn lạc lối hoài trong một im lặng
trầm

đa giác

Đôi khi ý nghĩa của chúng triển nở gần như vô hạn. Ngôn ngữ của ông không bí hiểm như trong một số nhà thơ cùng thời, nhưng sự khó hiểu nằm ở trường hợp khác. Là sự chọn lựa lối vào, trường thẩm mĩ, hệ thống tham chiếu và xa hơn, hoàn cảnh văn hóa. Bài thơ thường là cảnh vật cụ thể, những tình huống, thậm chí chỉ một xúc động thoáng qua, hay một tuyên bố, nhưng bài thơ không dừng lại ở đó mà có sức lan tỏa ngầm. Có một nhạc điệu thì thầm, sâu ngân nga dịu dàng bên dưới những câu thơ ngắn, tiết kiệm của Dương Tường. Chính vì thế mà sự diễn giải bằng văn xuôi các bài thơ, kể cả thơ cụ thể, thơ thị giác, nơi sự pha lẫn giữa hội họa và thơ ca là dụng ý của người viết, sự diễn giải ấy phức tạp, thậm chí không làm được.

ngã tư

cột đèn

ô kính

những ngón tay mưa

xập xòe kỷ niệm

Trong thơ Dương Tường không có lịch sử, vì lịch sử được tái tạo mỗi ngày trên trang giấy, hóa thành hiện đại, toàn bộ lịch sử là sự có mặt hôm nay. Thơ Dương Tường dung chứa một thứ huyền thoại kín đáo, thỉnh thoảng tương tác giữa hiện thực và huyền thoại tạo ra câu thơ chói lòa, gần hoang tưởng, hay giấc mơ.
Ai giảng giùm tôi liên
quan đường gân lá bồ đề rụng trên vai gày Phật Tổ  Như Lai với gập

ghềnh Đồi Sọ Golgotha Chúa Jêxu nhục hình

đinh câu rút

đường tràn mang án sống tôi bụi thơ và tự

chẩn bệnh cho mình

Liên văn bản trong thơ Dương Tường là đặt câu hỏi. Đó là sự tìm kiếm những khả năng khác nhau trong cùng một hoàn cảnh, những chọn lựa khác nhau trước một thử thách.  Là một người trí thức sống qua những thời gian đen tối thời kỳ Nhân văn Giai phẩm, và ngay cả sau này, một người bị đặt ra ngoài lề xã hội, hay gần như vậy, ông sống và hành xử như một tiếng nói lương tri. Dương Tường có lẽ không phải là người có đức tin tôn giáo, nhưng thơ ông bàng bạc cảm xúc bí nhiệm, không khí thánh kinh.

mở

những đại dương

                             trùng trùng

          sóng

mồ vĩnh cửu ôm ấp trong lòng sâu vĩnh cửu

triệu triệu vong linh    ngư dân    thủy thủ    nạn

nhân đắm tàu    thám hiểm gia đi tìm đất mới

hải tặc  thuyền nhân    ôi rong rêu bất tận    cứ thế

ngàn vạn năm đại thiên di exode tổng đại
thiên di tiếp nối

nước biển xanh bao nhiêu tỉ lệ phần trăm máu?

 Một loại thơ trữ tình nhiều vui sướng lặng lẽ, sự hỗn hợp của một truyền thống thơ ca tiền chiến và không khí đương thời. Tình yêu và cảm giác bao dung, khoan hòa, như thể cái đẹp có thể làm ra sự thật, như một bông hoa có thể tạo ra một mái nhà. Sự lập đi lập lại một số chữ, một số đoạn không phải là điều mới mẻ trong thơ, nhưng ở Dương Tường trở thành những giai điệu, những nốt nhạc, thánh thót, đôi khi huyền ảo. Thơ là hành động, nhưng đó là một trạng thái hành động mang tính thưởng thức, ghi nhận, kí gởi hơn là mang tính thay đổi.

những bản thảo en soufffrance

những dự án bay nằm đáy hộc tủ

những mộng mơ ngày một teo tắt lại

Nhà thơ là một trong những người không tin tưởng vào các định chế tinh thần đã được thiết lập. Đó là ý thức tự do mạnh mẽ, là sự phản kháng dịu dàng nhưng sẽ không thay đổi. Nếu so sánh với những người bạn nổi tiếng như Lê Đạt hay Hoàng Cầm, thì Dương Tường lặng lẽ hơn, kín đáo hơn, nhưng ý thức nổi loạn xem ra bền bỉ không kém.

Mư  ư  ưa

Mùa v-
ắ-
n-
g
trắng

(Mea Culpa)

Dương Tường có nhiều bài thơ viết bằng tiếng Pháp được dịch ra bằng tiếng Việt bởi chính tác giả hay một số người khác như Phạm Toàn, Đặng Tiến, Châu Diên, Ngô Tự Lập. Trong tập “Thơ Dương Tường”, gần như là một tuyển tập đầy đủ và quan trọng nhất gồm bốn phần không kể phần phụ lục:

– Tôi đứng về phe nước mắt

– Le soir est tout soupirs

– At the Vietnam wall

– Thơ thị giác

Đủ thấy sự đa diện của Dương Tường. Một trong những người còn lại sau cùng của thế hệ mình, sống qua thời kháng chiến chống Pháp, thời kỳ chiến tranh ở miền Bắc, thời kỳ sau 1975 khi hòa bình  lập lại, Dương Tường là thứ còn lại của ký ức chúng ta, sâu lắng, trong trẻo và trang nhã. Một chất giọng trầm tư nhưng vui sướng, đôi lúc gần như ca ngợi và lập lại nhiều lần một số giai điệu, những nốt nhạc, sự tiếp xúc đơn giản đối với hiện thực dung chứa nhiều khả năng diễn dịch dành cho người đọc. Bi kịch, bóng tối, tội ác của một hệ thống, sự đày đọa con người, cái chết, sự cứu rỗi của tình yêu và tha thứ, đó là những gì làm nên ngôn ngữ và âm nhạc Dương Tường.

 Cái dằm khổ vẫn mắc trong lìm lịm
ba

mươi hai lớp thịt tháng năm

Văn chương là phương cách từ bỏ sự chú ý, trở nên buông thả, bao quát, thân mật. Bài thơ của Dương Tường thường ngắn như một loại thơ thiền kiểu mới, hay Haiku, là giây phút tỉnh thức, khung cửa sổ nhìn vào thực tại mới. Sự tỉnh thức đối với vấn nạn của kiếp người, sức mạnh và sự yếu đuối của họ, sự vô tội và tội ác của nó. Một nhà thơ tài năng bao giờ cũng làm nổi bật được một số quan niệm của mình trong một bài thơ ngắn, hoặc về nghệ thuật hoặc về cuộc đời, tất nhiên không phải như một bài giảng luân lý. Một bài thơ của Dương Tường cũng mang lại quan niệm, nhưng chúng nhiều hơn một, rải rác nhưng không rời rạc, bao gồm những chuyển tiếp, được chiếu sáng bởi ngạc nhiên. Nhà thơ Hoa Kỳ Pound từng nói: Thơ là một thứ tin tức bao giờ cũng vẫn là tin tức (mới). Thơ Dương Tường thoạt nhìn không mục đích, không chủ đề, chính ra là những giây phút cần thiết. Thơ ông là sự cần thiết. Những câu thơ ngắn di chuyển với tốc độ nhanh, sức hấp dẫn không hẳn nằm ở sự quyến rũ của chữ như trong trường hợp Trần Dần hay Hoàng Cầm mà nằm ở chức năng của chúng. Điều kỳ lạ là trong khi Dương Tường có xu hướng về lời, gần duy mỹ, thì nhiều bài thơ của ông có thông điệp. Đó không phải là một thứ thông điệp rõ và bất biến. Chúng thay đổi theo người đọc và lần đọc khác nhau.

Em đi

môi mọng

đùi mọng

vú ấm

tim trống

đầu trống

Em đi – nhớt đêm

Em đi – mưa xiên

Em đi – trời nghiêng

Em – đời bỏ quên

Một trong những bài thơ đặc trưng của Dương Tường. Môi mọng là một chữ thông thường, thậm chí hơi sáo. Nhưng đùi mọng là chuyện khác, chữ không có trong tiếng Việt, nhưng hình như sẽ đứng.

Em đi – nhớt đêm

Có phải là nhớt trên đường chảy lênh láng? Hay nhớt trên người. Xuyên qua cuộc đời dài, với nhiều hoạt động nghệ thuật, làm thơ, dịch thuật, vẽ tranh, bè bạn, Dương Tường trở đi trở lại với khung cảnh phố xá, mưa, đô thị, mùa thu, với thiên nhiên, những đề tài cũ được lật tung trở lại với bút pháp mới, đó là những đặc trưng của chủ nghĩa hiện đại trong thơ Dương Tường. Một ngôn ngữ không chuẩn bị, có tính tán gẫu cao, tính đời thường, tính bất chợt, sự hài hước tinh tế khó nhận ra.

Em đi

ngực nhụy

rớm hương

Thân xác chúng ta không chỉ là thân xác, nó còn là nơi kết tụ những đầu mối. Hiện diện thường xuyên sự tìm kiếm, sự nghĩ ngợi, một tình yêu với đời sống thuần khiết, đến mức các thứ khác phải bị bỏ lại. Cái gì bị bỏ lại? Trước hết là thói dung tục, tính bầy đàn, cuối cùng là sự tủn ngủn đời thường, các thứ ấy là tiêu biểu của một không gian địa lý chính trị cụ thể, một nửa đất nước, thu nhỏ xét về mặt số lượng, nhưng về văn hóa có thể là một dân tộc. Riêng biệt. Bạn đọc lại:

Ở đây tất cả đều tủn mủn

Chỉ riêng khổ đau là hoành tráng

Dương Tường đôi khi trong sáng đôi khi tối tăm. Một trong những quyền năng của nghệ thuật là khả năng tự bộc lộ những kinh nghiệm của chúng đối với người đọc, một lần, hai lần, nhiều lần, tùy theo kinh nghiệm của người đọc và độ dung chứa của ngôn ngữ. Độ nén của ngôn ngữ là tài năng của mỗi nhà thơ. Sự phát hiện có tính sáng tạo, sự ngạc nhiên, là cảm xúc thú vị mà người đọc tìm gặp ở Dương Tường. Ngạc nhiên là gì? Là bước nhảy vọt.

Giọt sao dềnh vũng nhớ

Khuya em về mưa mi mineur

Âm nhạc siêu hình nhưng vẫn ý thức bàng bạc. Trong tuổi trẻ của Dương Tường có một phần của nước Pháp, một phần của châu Âu. Tôi chưa từng thấy ai hỏi ông đã khi nào ngờ vực con đường mà ông đã đi theo. Tôi nghĩ là không.

Vẽ nhăng trên tường ở Paris

ta lạ gì đâu

Bàn tay này từng vẽ thế

Tại sao có những sự vật chỉ hiện ra trong khoảnh khắc lại có thể có ý nghĩa đến thế với tâm hồn. Những bước nhảy trong thơ Dương Tường giải phóng ký ức ra khỏi ràng buộc, ra khỏi các tiền quan niệm. Sự tập trung chú ý làm sâu sắc thêm nỗi ngạc nhiên từ cuộc đời, trước vẻ đẹp của tình yêu. Thật ra có vẻ như Dương Tường không phải là người đi tìm kiếm, ông chỉ là người nhìn thấy.

Những chân trời  những chân trời xa   những

chân trời mờ mịt   những chân trời lung linh  

những chân trời vẫy gọi (sao không nói tay

trời?)   những chân trời ảo   những chân trời

 hứa hẹn   những chân trời cạm bẫy   những

chân trời hi vọng   những chân trời lừa mị

Vẻ đẹp của văn chương khác với vẻ đẹp của đời sống; chúng có liên hệ với nhau nhưng không phải là mối quan hệ mật thiết ràng buộc. Mối quan hệ ấy đầy những ngạc nhiên. Ngay cả vật tầm thường bé mọn, những điều tưởng đã cũ, dưới cái nhìn mới bỗng sáng lên như hiện tượng mới.

Chợ ái ân

Loang lổ

Đèn đường

Đó không những là mô tả những cô gái giang hồ, mà còn là ánh đèn đường, là bức tranh hội họa vẽ cảnh đêm Hà Nội, tôi ít thấy bức tranh nào giản dị mà sắc màu nổi bật thế, một loại tranh đen trắng bởi nét cọ mảnh, tàn nhẫn.

Mủ đêm

Là sự làm đầy bức tranh bằng động tác bất ngờ, liên tưởng kì bí. Thơ ngoài lời, là thơ cụ thể, thơ thị giác, thơ tạo hình. Đây là một hình thức nghệ thuật khá lâu đời ở phương Tây nhưng khá mới mẻ ở Việt nam, ngay cả vào những năm đầu của thế kỷ 21 khi tôi viết những dòng này. Sự tiếp nhận của công chúng đối với thơ ngoài lời là dè dặt và hạn chế. Cũng như Đặng Đình Hưng, Trần Dần, nhà thơ Dương Tường là người chăm chú biểu đạt, đã để lại những vết chân đẹp, như những thứ gì chưa hoàn thiện, tìm đường. Đọc và nhìn thơ ngoài lời của Dương Tường để cảm nhận được đời sống của ông gần hơn, sâu hơn. Nỗi siêu hình bàng bạc.

Cây ngoài kia bắt đầu trút lá

ta nên trút theo chăng?

vòm lá ta: những cuộc tình hoang phế

ta vẫn một mực mang như tấm áo sờn

dùng dằng không nỡ dứt

e hồn ta xây xước lõa lồ

ngoài kia cây đang trút lá

ta cùng trút theo chăng?

Dương Tường quan tâm đến mối quan hệ giữa truyền thống và làm mới, giữa các điển chế và tính độc đáo, sáng tạo. Thơ ông tách rời khỏi truyền thống thơ Việt Nam, đi những bước lặng lẽ nhưng quả quyết thành một ngã rẽ. Ngôn ngữ của chúng ta trước hết là ngôn ngữ được tạo ra bởi  người đi trước và Dương Tường không tránh khỏi điều ấy.

Chiều se sẽ hương

Vườn se sẽ sương

Ở trong một bài thơ ngắn, được in ở trang bìa sau cùng của tập thơ do Nhã Nam in mới nhất, năm 2017. Thật ra đó không phải là bài thơ quá mới.

Anh ở xa về mắt dâng lũ

một ánh buồn

Đêm đầu tiên tân hôn lại

vợ anh giảng

những chưa biết trong

tình yêu

bằng không nói

Người đàn bà hít mồ hôi

ba năm chờ

cười vô lối

Cửa sổ sóng sánh tiếng

huýt sáo một người

đi chơi đêm

(1966)

Mới thật là một bài thơ mới. Rất độc đáo, đặc biệt được viết vào những năm 60, mặc dù tất nhiên không được xuất bản vào thời ấy, bài thơ nén lại qua thời gian, chờ đợi. Một bài kì lạ, đẫm tình dục, lóng lánh, lãng mạn, mà dũng mãnh như thơ G. Lorca.

Thơ không nhằm phản ảnh hiện thực. Nhà thơ tạo ra một hiện tượng mới. Thơ bao giờ cũng là tiếp diễn một nền thơ trước, là chuyển ngữ một ngôn ngữ. Tuy hiện tượng lo lắng về ảnh hưởng của người khác là điều có thật, đó không hề là nỗi ám ảnh lớn của các nhà thơ Việt Nam theo truyền thống Đông phương. Trong những nhà thơ cùng thời, chúng ta có thể tìm thấy dấu vết của thơ những người đi trước, nhưng ở Dương Tường ấn tượng ấy không rõ ràng. Thơ ông ít có tiền lệ.

Hồ môi thơ lã chã âm xưa

Bản nháp chiều tơ liễu

Đưa mưa

Thơ ca nói cho cùng là sự đối thoại, giữa người viết và người đọc, giữa người viết và người nhìn, giữa người chơi đàn và người nghe. Thể thơ, các quy ước vần điệu có lẽ đã ám ảnh Dương Tường khá nhiều, kẻ đi tìm một thế giới khác, thật ra là để liên kết con người vào những hiện thực tiềm ẩn, bị che lấp, một thứ tiền hiện thực, mang chúng ta trở lại với nguyên mẫu, cội nguồn.

Tôi đâu tròn

rì rào

mái đầu thương

ngày r       

          ụ

          n

          g

dòng đau

trôi một mùa xác ve sầu

Thơ ca là nghi lễ.

Thơ trữ tình thoạt nhiên là thơ được hát như bài hát. Là lời được nói lên, hát lên, không phải chữ. Thơ trước hết ở ngoài chữ, trước chữ. Những người làm thơ đều có kinh nghiệm rằng khi viết họ không ngồi đếm số chữ trong một câu, và một hai câu đầu tiên sẽ dẫn đường cho nhạc điệu. Như vậy có một hệ thống kí mã về âm thanh ở ngay câu đầu tiên.

À côtê de moi

Bên cạnh anh

Như thể chỉ có thể là:

ta place vide

chỗ em nằm trống không

place òu jamais tu ne viens t’allonger

chỗ em không bao giờ nằm

Thơ tình mơ hồ, nhẹ nhõm, bát ngát , như có như không, không đau đớn, không dằn vặt, nhưng lâng lâng như không khí mùa thu Hà nội, tươi mới, thanh cao. Tác động nếu có của thơ ấy trước hết là từ sự đối lập giữa một bên là các quy ước vần điệu và một bên là câu thơ vượt khỏi sự chờ đợi, làm bất ngờ người đọc.

Kỉ niệm zi căn

vào

tâm thất

Chữ z trong zi căn sẽ chia người đọc làm hai loại: những người thích nó và những người rất không thích nó. Thật ra chẳng có bài thơ tự do nào là hoàn toàn tự do, với nghĩa là tác giả tự do chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ câu đầu tiên, mọi thứ tiếp theo của câu thơ tự mình đi theo quy luật của chúng. Tôi có ấn tượng rằng Dương Tường chịu ảnh hưởng của các nhà thơ Phương Đông, Nhật Bản, trong việc tiết kiệm chữ và say mê theo đuổi hình ảnh. Có thể gọi đó là một trường phái hình ảnh sâu mà các tác giả như William Carlos Williams trước đây có nhắc tới. Các câu thơ của ông ngắn, kích thước không đều, các chữ được lựa chọn cẩn thận mặc dù không phải khi nào cũng chuẩn xác hay “đắt”. Đọc ông, tôi nghĩ rằng tác giả tập trung, rất chú ý các câu thơ. Câu thơ là một đơn vị đặc biệt, có thể xem là một trong những quan tâm lớn của Dương Tường. Chính vì thế mà đến một lúc nào đó ông buộc phải vượt qua khỏi nó. Như một người suốt ngày ngồi đăm đăm nhìn vào một cánh cửa, thế nào cũng có lúc vượt qua nó.

Thơ Dương Tường là thách thức đối với các nhà phê bình. Sau này, một số bài thơ của ông có lẽ sẽ không còn đứng được với thời gian, một số thể nghiệm có thể trở nên lỗi thời, nhưng một số bài thơ khác, cũng như toàn bộ cách tiếp cận của Dương Tường đối với ngôn ngữ, là một trường hợp điển hình, giúp người đọc thơ sống cuộc đời của họ một cách ý thức, hiểu biết sâu xa hơn về đau khổ và tình yêu, giúp họ nhìn thấy hoặc hình dung một số điều ở bên ngoài giới hạn của lịch sử, của lời.

Chờ em đường dương cầm sim
vằng vặc nụ dương cầm trinh

Trinh là tên riêng của người bạn đời.

Dương Tường quan tâm đến thế sự, mặc dù ông không biến nó thành đề tài. Chất thế sự ấy bàng bạc như âm nhạc hậu cảnh (background music). Có một khả năng, một thời điểm khi luân lí, chính trị, thế sự gặp gỡ thơ ca, nhưng đó là thời điểm đầy những xáo trộn, của các giá trị. Thơ là biểu hiện ở mức cao nhất động lực của hiện thực. Trong tình yêu đó là lửa, trong các đề tài xã hội là lưỡi dao sắc, trong thơ trữ tình là lời tự tình thân mật, riêng tư. Thơ Dương Tường nói về thiên nhiên, không phải một thiên nhiên thuần phác như trong thơ tiền chiến, mà mang dấu ấn của con người. Thiên nhiên trong thơ ông là tấm gương phản chiếu những giấc mơ không thành, những số phận bị đe dọa, những tình yêu lầm lỗi, không ngớt trở nên cao thượng.

Gửi lại em

gửi lại em tất cả

Kể cả con âm đầu trót thụ tinh thơ

 

Riêng đêm em xòa bóng nốt ruồi

24 quầng

 

Anh giữ

Nghệ thuật là rời bỏ sự chú tâm đối với chi tiết thân cận, vốn làm cho con người bị cuốn hút vào hiện hữu của chúng, giúp họ thoát ra và trở thành tự do. Cố gắng của Dương Tường không những để vượt qua giới hạn của ngôn ngữ mà còn để mở cánh cửa trong một bài thơ, những cửa sổ của hội họa và âm nhạc, của nhận thức. Bài thơ có nhiều nhánh, nhiều ngả đường. Thơ của ông ngắn, nhỏ bé, mỏng mảnh, là những kí ức qua nhiều năm tháng, là phần tinh khiết của dân tộc, một lớp người, của khổ đau và vàng son kí ức, của sự tự hào nhầm lẫn và sự nhầm lẫn tự hào.

Đau sao yêu được mình đau

Đau sao yêu chẳng đủ đầy

Bài thơ là lời cầu nguyện. Đọc thơ Dương Tường đôi khi cần đọc như kinh cầu. Chúng ta yêu nhau, chúng ta đau khổ, tan tác, võ vàng. Chúng ta tin, vì không tin thì không sống được. Bài thơ như giấc mơ: đôi khi người ta phải sống như giấc mơ. Thơ Dương Tường không phải là thơ triết lý, tất cả những nhà thơ bạn ông cùng thời kỳ, như Trần Dần, như Hoàng Cầm, Lê Đạt đều ít khi làm thơ triết lý. Ngôn ngữ của họ nặng về hình ảnh, nặng về mô tả. Ở Dương Tường là sự chắt lọc hình ảnh. Mặc dù thế những phát hiện trong thơ có tính nhận thức là đặc điểm của thơ Dương Tường. Đọc lại một bài thơ của ông bao giờ cũng gặp cảm giác gặp cái mới lạ, nhờ cách tổ chức hình ảnh, ngôn ngữ tưởng như cũ mà mới, cách nói giản dị và buông thả, không chuẩn bị, không giải thích. Sự hài hước trong thơ khó nhận thấy, tinh tế, thấp thoáng, gần như không có chủ đích.

Tiệc liên hoan tôi lấy phần

một gói buồn trémolo

Niềm vui thời mới lớn tỏa bóng mát kín đáo. Nỗi ám ảnh của thời tiết, mùa, người tình, tất nhiên đó không phải là những đề tài riêng của một mình Dương Tường. Nhưng ông chuyên chú nhiều vào một không gian đặc thù, nửa lãng mạn, nửa hiện đại. Tác giả nhân cách hóa những sự vật tầm thường, nhân chúng lên bằng tình yêu đặc biệt, như một người sống giữa và cảm thông với cây cối và đồ vật. Rất khó để trích một bài thơ của ông trong một hai câu vì mỗi bài thơ gần như một toàn thể. Từ vựng và văn phạm của Dương Tường ngắn gọn, các ngắt câu có chủ ý. Ông chỉ nhắc rất thoáng qua những quãng đời thực của mình, sự nghèo khổ, sự đàn áp, tù tội, sự nghi ngờ, hãm hại. Ông là người nghệ sĩ, hẳn nhiên, nhưng đằng sau thái độ sống ấy là sự minh triết sâu xa, một quan niệm sống đồng hành quan niệm văn chương. Sống như một trí thức, không hoàn toàn là một người phản kháng, nhưng nhẫn nhục, chịu đựng, vượt qua và không bao giờ đầu hàng. Bên trong vẻ dịu dàng là ngọn lửa của sự sống hết mình, tính cam kết mạnh mẽ đối với những lý tưởng riêng. Khác với một số người cùng thời, Chế Lan Viên ngoài Bắc chẳng hạn, ông ít nhắc đến cái to tát, cái lý tưởng. Họa hoằn lắm, mới có câu mang tính khái quát.

Tuy thế, có những lúc Dương Tường không thành công và không phải là mình:

Tôi hé một con mắt-vú-bò qua kẽ nghiêng phòng
hoá-nghiệm-tổng-hợp tím cong cong

ngấn

ngực thời gian

 

Hay chịu ảnh hưởng rõ ràng của người khác:

Tôi đến em

tôi ái tình từ đầu móng tay

chân sợi tóc

tôi

Lũy thừa yêu

Lũy thừa nhớ

Lũy thừa đau

xin nhập hộ không đăng ký đuôi mắt
dài

phố sao em bối rối

 

 

 

 

 

 

Là một tuyên bố, cái nhìn cận cảnh đối với sự vật, hay là cái nhìn đối với cuộc đời?

lụa len

phố nêm

mà im

thèm

men

nhá nhem

lối khói

lá khói

Boheme

Boong

Boong

chuông em

lá khói

thèm em

thềm êm

đường đêm

tràn im

khuya thêm

rộng thêm

mùi thêm

buồn thêm

sao em

phi lí

ngực rằm

phi lí

đồng trinh

phi lí

kèm đen

tình đen

tình điên

pòm pem

mưa đêm

Thơ hội họa trong thơ ngoài lời của Dương Tường có thể xem là một hình thức của thơ cụ thể. Thật ra trên thế giới cũng chưa bao giờ và ở nơi nào, hình thức mới này của thơ ca, dù xuất hiện đã lâu, lại nhận được sự tán đồng hoàn toàn của dư luận và các nhà phê bình. Cũng như mối quan hệ giữa thơ có vần và thơ tự do, mối quan hệ giữa thơ cụ thể và thơ thông thường cũng có những ranh giới khá mơ hồ. Thơ vượt ra ngoài vần điệu, thơ tự do giúp người đọc sống chính đời sống của cá nhân mình, một đời sống không khuôn thước, đầy hơi thở của hiện tại, trực tiếp, khỏe mạnh, sâu xa. Đẩy thơ tự do đến tận cùng biên giới của ngôn ngữ, và cuối cùng vượt qua chúng, cực đoan hóa sự phóng túng, là nguồn gốc của thơ ngoài lời. Đó là một cố gắng khó khăn, tuy chưa chắc đã mang lại những tác phẩm lớn, là giữ vai trò làm người mở đường, người báo hiệu các thành công và thất bại của thơ ca. Nhà thơ giúp nối kết trở lại con người và nguồn cội của mình. Đó là một cố gắng chống lại sự trừu tượng hóa, sự văn minh hóa, sự văn hóa hóa, tìm về nguyên thủy.

Cửa sổ sóng sánh tiếng

huýt sáo một người

đi chơi đêm

Sự thật thơ ca là một sự thật có tính tượng trưng, do đó sự tìm kiếm nó không thể dựa trên những phương pháp thông thường. Sự thật thơ ca nằm ở tính chất kì bí. Tuy Dương Tường là một người vượt ra khuôn phép, chính ông lại yêu mến các nghi lễ. Nghi lễ là hình thức của tình yêu và của sự mất mát, của cái chết. Bởi vì thơ ca không thể tách rời khỏi nhạc điệu, thơ ngoài lời khác với thơ cụ thể ở chỗ nó nhấn mạnh đến tính chất âm nhạc của thơ ca, ngoài tính chất hội họa. Tất nhiên âm nhạc ấy không được thực hiện bằng các nhạc cụ như đàn hay trống, nó phải được thông qua các hình ảnh. Có điều đây là những hình ảnh gợi ý, không phải các chân dung.

Tôi đến em

tôi ái tình từ đầu móng tay

chân sợi tóc

Đọc thơ Dương Tường, cả loại thông thường và thơ cụ thể hoặc ngoài lời, cần đọc như một hệ thống gợi ý. Vì vậy các điển tích, các dẫn chiếu, sự đọc liên văn bản, là bắt buộc phải có khi đọc Dương Tường. Đọc thơ tự do cần một sự chú ý rất cao đối với các hình thức biểu hiện. Tôi cần giải thích thêm điểm này: đối với một bài thơ năm chữ hay bảy chữ hay lục bát, bạn chú ý thưởng thức ngôn ngữ của chúng nhưng không chú ý lắm số chữ trong câu, cách hiệp vần, vì hiển nhiên chúng nằm sẵn ở đó. Đối với bài thơ tự do, số chữ bằng nhau trong một câu, sự xuống dòng, sự hiệp vần vẫn xảy ra.

Chúng ta nói về thơ tự do để nói về một điều khác, có lẽ đến tận cùng biên giới của thơ tự do sẽ gặp một thứ thơ ngoài lời chăng? Tôi không biết, nhưng tôi tin rằng, mỗi người đọc nên tự tìm cho mình con đường riêng bằng cách gõ cánh cửa của ngôn ngữ.

Không ai cứu tôi

tất cả bận lâm chung

để mặc tôi bơ vơ

với

sống

Người đọc chú ý đến các tình huống đặc biệt trong giọng thơ ấy: sự tan vỡ, sự nguy hiểm, cái chết, sự đói khát, tuyệt vọng. Ở Dương Tường hình như có một cảm giác bồi hồi tưởng nhớ những người cùng thời đã khuất, nhưng không hẳn là cảm giác thấy mình có lỗi của kẻ sống sót sau một tai họa (survivor’s guilt), mặc dù ông thực sự là một kẻ sống sót.

Bên cạnh anh

Chỗ em nằm trống không

Chỗ em không bao giờ nằm

À côté de moi

Ta place vide

Place où jamis tu ne viens t’allonger

(bản dịch của tác giả)

Dương Tường ao ước được ghi trên mộ chí của mình câu sau đây: “Tôi đứng về phe nước mắt.” Câu ấy, mặc dù hơi nữ tính, tiêu biểu cho hành trình thơ ca của ông, ý thức về tha nhân và xã hội, lập trường của một người nói tiếng nói của nhân dân, một nghệ sĩ có tư cách, nhà trí thức lên tiếng trước tội ác và những lầm lỗi có tính hệ thống, có thể gọi là thái độ bất khuất trước bạo lực. Nhưng con đường thơ ca ấy còn một phía khác, của một tâm hồn nghệ sĩ cùng cực, yêu cái đẹp lạ thường. Vì yêu cái đẹp mà ông đành có lỗi với thế gian?

mea culpa

ai vỗ về hòn đá khóc

Nhiều người cho rằng những đổi mới như của Trần Dần và Dương Tường là sự phá vỡ ngôn ngữ. Điều ấy có thể đúng nhưng chưa đủ. Những người yêu thiên nhiên, biết lắng nghe những tiếng nói bên ngoài con người, lắng nghe cảm xúc của trái đất, không những sẽ biết:

chiều se sẽ hương

Vườn se sẽ sương

Đường se sẽ quạnh

Trời se sẽ lạnh

Người se sẽ buồn

Đường gió mát hơi thu. Mà còn biết một thứ ngôn ngữ khác, tôi nghĩ là nối kết trực tiếp hơn, vào với thiên nhiên.

Ai đi

ròng ròng

anatomy

Và những :”Đèn rem, đùi ren, lụa len, ngực rằm”…

Là những nối kết hạ ý thức. Vì vậy thi pháp con âm của Dương Tường, theo cách nói của ông, là sự liên kết giữa thơ ca và nguồn cội, mang chúng ta trở lại với tuổi thơ của con người. Trong ý nghĩa ấy, thơ Dương Tường mang thân xác vào quê hương, mang mùa thu vào phố xá, âm nhạc vào hội họa. Trong thơ, ông trở thành một tấm gương, trở thành nỗi ao ước của con người chống lại nghịch cảnh, vượt qua tình trạng bị vây hãm bởi các hệ tư tưởng xã hội lỗi thời, đầy bạo động, trở lại với tinh thần phóng túng phục hưng. Thơ Dương Tường vừa trong sáng với ý tưởng rõ ràng, nhiều thi tứ hơn nhiều người tưởng, vừa đầy rẫy những cấu trúc mờ, gãy, tái phối trí, các câu dài ngắn bất thường, buông, đôi khi ngân nga như nhạc. Sự khác biệt, thậm chí xung đột ấy, vừa là điểm mạnh vừa là điểm yếu của thơ Dương Tường. Thật ra một người như ông không có chọn lựa nào khác. Ông viết ít, các bài thơ ngắn, nhưng sự phức tạp là lớn lao và có lẽ chưa được nhìn thấy. Dương Tường tách mình ra khỏi truyền thống lãng mạn tiền chiến, xếp mình bên cạnh những người cùng thời như Đặng Đình Hưng, nhưng với một lối nói mới, nhỏ nhẹ mà cứng cỏi, bình thản mà lâu bền. Thơ ông là niềm vui sướng được sống, là hoài niệm về cái đẹp, không hẳn là hoàn toàn biến mất, là tiếng nói lương tâm giữa một thời đại đổ vỡ, là sự làm mới trong khi trở lại, là sự trở lại để làm mới. Vì vậy thơ Dương Tường dù được biết từ năm 1960 trong hoàn cảnh lẻ loi, mất tự do, hay được viết gần đây, giữa rộn ràng những người bạn trẻ tuổi của ông, yêu mến nhà thơ, vây quanh ông như tôi đã thấy, vây quanh ông như chính người vợ và cuộc đời kia, giọng thơ ấy vẫn sống động ở thì hiện tại và vẫn còn trẻ mãi.

Dương Tường làm việc miệt mài vào những năm lớn tuổi, ở người khác là không viết được nữa, như thể cuộc đời ấy chưa bao giờ, không bao giờ kết thúc, lúc nào phía trước cũng có một trang sách mở chờ ông. Sau tất cả những năm gian khổ đã đi qua, những chặng đường vui đã bỏ lại, sau những sách đã viết, những tranh đã vẽ, những lời đã không nói, ông vẫn nghĩ:

Tôi còn ván chơi cuối kỉ xập

xình beat rock disco sốt cuồng

Một tâm hồn trẻ trung, náo nức, mở cửa tự do cho những tình yêu mới, mà sự từng trải không dập tắt. Tuy vậy, đôi khi bạn cũng tìm thấy trong thơ ông sự trống rỗng, và ở trong cõi trống rỗng ấy vang lên tiếng nói của im lặng.

Chiều

buông

đầy

những

thở

dài

Tình trạng vắng lặng, mênh mông ấy là sự vô phân biệt, là lối đồng nhất giữa chủ thể và đối tượng, giữa con người và xã hội. Giữa sự đề kháng quyết liệt và bao dung tha thứ. Sự từ bỏ của Dương Tường và sự trở lại.

Nguyễn Đức Tùng

(trong chuỗi bài Đọc Thơ, bài 14)

Chú thích:

Tài liệu tham khảo:

Dương Tường, Thơ, NXB Hội nhà văn 2017

Louise Gluck, American Originality, NXB FSG 2017

Robert Hass, What Light Can Do, NXB Ecco 2012

Helen Vendler, Part of Nature, Part of Us, NXB Harvard University Press, 1980

 

Share this:

Thích bài này:

Thích

Đang tải…

Rate this post