Nhà Thơ Tú Mỡ – Những Sáng Tác Nổi Tiếng Của Nhà Thơ Tú Mỡ – Đề án 2020 – Tổng Hợp Chia Sẻ Hình ảnh, Tranh Vẽ, Biểu Mẫu Trong Lĩnh Vực Giáo Dục
(Gửi bác Hiếu, Tản Đà)
Nghe đồn bác Hiếu Tản Đà
Mở hàng lý số tỉnh Hà nay mai
Chừng bác thấy lắm ngài “Lốc Cốc”
Chỉ chuyên môn nói dóc ăn tiền
Tán hươu tán vượn huyên thiên
Nói thánh nói tướng như tiên như thần
Nghề bẻm mép kiếm ăn cũng dễ
Chẳng khổ như cái nghệ làm văn
Lao tâm trí, tổn tinh thần
Nhà thơ vắt óc tìm vần gọi câu
Lắm lúc bí gan rầu ruột thắt
Thức thâu đêm mỏi mắt phờ râu!
Nhọc nhằn ai biết công đâu
Để cho thiên hạ giải sầu mua vui
Nghề thơ chẳng đủ nuôi thi sĩ
Nên bạn tôi phải nghĩ đường xoay
Nhà nho chữ tốt văn hay
Thời khoa lý số hẳn tay cũng tài
Vả xưa đã dùi mài Kinh Dịch
Báo An Nam chú thích tinh tường
Ngày nay đoán việc âm dương
Hẳn không bố phượu như phường ba hoa
Nào hãy đến Tản Đà Cốc Tử
Quẻ càn khôn hỏi thử xem sao
Xem tài thầy thấp hay cao
Mười câu hoạ có câu nào sai chăng?
Dù thầy có tán trăng tán cuội
Nghe nhà thơ lời nói văn hoa
Nhất khi rượu đã khề khà
Tán đâu ra đấy đậm đà có duyên
Thời khách mất đồng tiền đặt quẻ
Cũng vui tai và sẽ vừa lòng
Nhưng xin thầy chớ “nói ngông”!
Vì ai nên nỗi nhớ cùng thương
Một mối tơ tình dạ vấn vương
Sáu khắc mơ màng hình bạn ngọc
Năm canh nhớ tưởng bóng người vàng
Ruột tằm chín khúc vò tơ rối
Giấc điệp năm canh diễn khắc trường
Muốn nhắn cùng ai, ai nhắn hộ
Mòn đuôi con mắt giải sông Tương.
20. Tứ đại của bà lớn
Vừa rồi thống Diệm mới phong cho
Thím nó (tức là vợ chú Nhu)
Cái tước “Cộng hoà bà lớn nhất”
Để dương danh giá của… bà to…
Một là cái bọng của bà to,
Phề phệ y như cái bọng bò
Vắt khố dân cày bà ních bẫm
Bao năm bèo bổ tức cùng tô.
Hai là cái mặt của bà to
Phèn phẹt y như mặt hổ phù
Bác thống cho ra làm đại diện
Còn trơ hơn thớt, cộp hơn mo.
Ba là cái miệng của bà to
Xoạc tận mang tai tựa miệng sò
Quàng quạc kêu gào xui phụ nữ
Bán mình đăng lính với đi phu.
Bốn là “nhân vị” của bà to,
Việc “ngoại giao” mần giúp bác Ngô,
Rất được vừa lòng quan chủ Mỹ
Ngày đêm khăng khít bợ cơ đồ.
Bác nó làm to, thím cũng to
Bốc nhau thối hoắc nhật nhiều trò
Đúng như cửa miệng người ta mỉa
“Một đứa làm quan cả họ nhờ!”
Đôi nét về tiểu sử nhà thơ Tú Mỡ
Tú Mỡ, tên thật: Hồ Trọng Hiếu (1900-1976), là một nhà thơ trào phúng Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu văn học, thì với gần nửa thế kỷ cầm bút bền bỉ, ông đã có những đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của thơ ca, đặc biệt về mặt thơ trào phúng, thời nào ông cũng là bậc thầy.
Cuộc đời của nhà thơ Tú Mỡ
Tú Mỡ sinh ngày 14 tháng 3 năm 1900 tại phố Hàng Hòm (Hà Nội), trong một gia đình lao động nghèo ở thành thị (tiểu thủ công).
Lên 5 tuổi, ông học chữ Hán với ông nội. Khi ông nội mất, ông mới học chữ quốc ngữ với thầy giáo Quý ở phố Hàng Mành. Học được một năm, ông xin chuyển vào học trường nhà nước ở phố Hàng Bông, tiếp đến là trường ở Hàng Vôi.
Năm 14 tuổi (1914), ông đỗ đầu bằng sơ học Pháp-Việt, nên năm sau được vào học tại trường Bưởi (nay là Trung học phổ thông Chu Văn An), chung với Hoàng Ngọc Phách.
Năm 16 tuổi (1916), ông bắt đầu “mắc bệnh” làm thơ. Trong Hồi ký, ông kể lại: “…tôi quyết tâm học làm thơ. Trước hết tôi mua bộ Hán-Việt văn khảo để nghiên cứu các thể thơ ca, từ, phú, rồi mua những tập thơ của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Yên Đổ, Tản Đà, Trần Tuấn Khải, những tác phẩm mà tôi thích đọc nhất…”
Năm 17 tuổi (1917), ông bắt đầu yêu một cô gái 15 tuổi ở Hàng Bông, làm được bài thơ tình đầu tiên (theo thể thất ngôn bát cú) có tên là Tương tư, bị Hoàng Ngọc Phách chê là sáo…
Năm 18 tuổi, ông đỗ bằng Thành Chung và cuối năm đó, ông xin vào làm (thư ký) trong Sở Tài chính (Hà Nội) cho đến Cách mạng tháng Tám (1945).
Bước vào nghề “thầy Phán”, ông sáng tác được bài thơ khôi hài đầu tiên, đó là bài Bốn cái mong của thầy Phán.
Năm 1926, ông bắt đầu có thơ đăng trên Việt Nam thanh niên tạp chí, Tứ dân tạp chí.
Sau khi gặp gỡ Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), được nhà văn này phát hiện năng khiếu làm thơ trào phúng của ông, năm 1932, Tú Mỡ tham gia Tự Lực văn đoàn, rồi được cử phụ trách mục Giòng nước ngược trên tờ Phong Hóa, một tờ báo chuyên về văn chương, hài hước và trào phúng của bút nhóm này.
Tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, Tú Mỡ lên chiến khu, tham gia kháng chiến bằng ngòi bút trào phúng sở trường quen thuộc. Thời kỳ này, Tú Mỡ ký tên là Bút Chiến Đấu. Ông giải thích: Vì thấy công cuộc kháng chiến là công cuộc nghiêm chỉnh, mình dùng bút danh để đánh địch cũng là việc làm nghiêm chỉnh,…cho nên tôi không muốn dùng bút danh cũ là Tú Mỡ. Tú Mỡ là tên đặt đùa, ý là người kế tục nhà thơ bậc thầy Tú Xương. Vả lại, hai chữ Tú Mỡ lúc này ông còn nghe gần với “đú mỡ”, có vẻ không được…nghiêm túc. Và từ nay, tôi đặt thơ vào hai mục riêng: loại đánh địch là mục “Nụ cười kháng chiến”, loại ca ngợi tinh thần anh dũng của quân dân là mục “Anh hùng vô tận”[6]. Theo Từ điển Văn học (bộ mới), thì trong lúc kháng chiến, có lần ông bị đối phương bắt nhưng đã tìm cách thoát được.
Tú Mỡ và Thế Lữ là đôi bạn tri kỷ lui tới với nhau, một đời.
Năm 1954, chiến tranh kết thúc, ông tiếp tục sáng tác phục vụ cuộc đấu tranh trong giai đoạn mới.
Năm 1957, ông được bầu làm Phó chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, và làm Ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam.
Năm 1974, bà vợ tào khang chung thủy của ông mất, Tú Mỡ đã viết bài thơ Khóc Người Vợ Hiền, đáng kể là một trong những bài thơ tình hay nhất:
Bà Tú ơi! Bà Tú ơi
Té ra bà đã qua đời, thực ư?
Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,
Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao.
Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào,
Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai…
Tú Mỡ mất lúc 13 giờ ngày 13 tháng 7 năm 1976 tại Bệnh viện Việt–Xô (Hà Nội), hưởng thọ 76 tuổi.
Hiện nay tên của ông được đặt tên cho một con phố ở quận Cầu Giấy, Hà Nội, nối từ phố Mạc Thái Tông đến đường Phạm Hùng ở cạnh sau Trung tâm Thương mại BigC Thăng Long. Đường Tú Mỡ ở Quy Nhơn, Bình Định nối đường Lê Bá Trinh đến đường Võ Thị Sáu.
Tác phẩm chính của nhà thơ Tú Mỡ
Thơ
Giòng nước ngược: tập 1 (Đời Nay xuất bản, Hà Nội, 1934), tập 2 (Đời Nay xuất bản, Hà Nội, 1941), tập 3 (Đời Nay xuất bản, Hà Nội, 1945)
Nụ cười kháng chiến (1952)
Anh hùng vô tận (1952)
Nụ cười chính nghĩa (1958)
Bút chiến đấu (1960)
Đòn bút (1962)
Ông và cháu (tập thơ thiếu nhi, 1970)
Thơ Tú Mỡ (tập thơ tuyển, 1971)
Diễn ca, chèo, tuồng…
Rồng nan xuống nước (tuồng, 1942)
Địch vận diễn ca (diễn ca, 1949),
Trung du cười chiến thắng (thơ, chèo, hát xẩm, 1953)
Tấm Cám (chèo, 1955)
Nhà sư giết giặc (chèo, 1955)
Dân tộc vùng lên (diễn ca, 1959), vv…
Nghiên cứu
Bước đầu viết chèo (1952)
Năm 2008, Tú Mỡ toàn tập (gồm 3 tập) được xuất bản. Bộ sách do Lữ Huy Nguyên-Trần Thị Xuyến-Hồ Quốc Cường sưu tầm và biên soạn, nhà xuất bản văn học ấn hành.
Giải thưởng của nhà thơ Tú Mỡ
Tú Mỡ đã được trao tặng các giải thưởng sau:
Năm 1951: giải nhất về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam.
Năm 1955: giải nhì về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam.
Năm 2000: được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II.