Công khai mắng lãnh tụ, nguyên soái Trung Quốc chịu cảnh “làm nhục” và cái chết “thay họ đổi tên” ai oán
Bức tâm thư gây tội
Tháng 11/1956, trong một lần đi khảo sát cơ sở, phát hiện tờ tuyên truyền dán trên tường ghi: “Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Mao Trạch Đông…“, Nguyên soái Bành Đức Hoài liền nói: “Câu này có vấn đề, quân đội bây giờ là của quốc gia, không thể chỉ nói là dưới sự lãnh đạo của một ai đó được… Chủ tịch Mao qua đời thì ai lãnh đạo?“.
Bành Đức Hoài (1898 – 1974), tên thật là Bành Thanh Tông, hiệu Đức Hoa, quê ở Hồ Nam, Trung Quốc.
Ông là một trong mười nguyên soái của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, từng chỉ huy Quân đoàn ba trong chiến dịch Vạn lý trường chinh (1934 – 1935).
Ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giai đoạn 1954 – 1959.
Đến Hội nghị Lư Sơn diễn ra từ 2/7 – 16/8/1959, Bành Đức Hoài viết thư riêng cho Mao Trạch Đông, bày tỏ quan điểm và đề cập đến thất bại, nền kinh tế tiêu điều của Trung Quốc khi thực hiện chính sách Đại nhảy vọt.
Điều khiến Bành ngỡ ngàng chính là tại hội nghị ngày 16/7, Mao Trạch Đông đã quyết định in bức thư thành văn kiện và đưa ra thảo luận và quy kết ông là tiêu cực.
Đến ngày 27/7, hai ông Mao – Bành đã có đã có cuộc đấu khẩu, mắng nhiếc thậm tệ lẫn nhau ngay tại hội nghị. Khi bị Mao phê bình, Bành cũng không vừa đáp trả lại. Sau đó, tại buổi họp cuối cùng, Mao hạ lệnh phê bình Bành.
Nguyên soái Bành Đức Hoài và vợ – bà Phố An Tu (1918 – 1991)
Khi đó, Lâm Bưu đã nhân cơ hội kêu gọi mọi người quay sang đả kích ông. Cuối cùng, Bành Đức Hoài bị quy kết đứng đầu bè lũ phản đảng [Cộng sản Trung Quốc], bị bãi miễn các chức vụ và đưa về quản thúc ở Thành Đô, Tứ Xuyên.
Nguyên soái già bị công khai “làm nhục”
Năm 1966, khi Cách mạng văn hóa bùng nổ, Bành Đức Hoài bị nhóm Giang Thanh – Lâm Bưu vu cáo và bức hại, bị Hồng vệ binh áp giải từ Thành Đô về Bắc Kinh đấu tố.
Trong quá trình đấu tố, do sức khỏe yếu nên ông được chuyển vào viện điều trị. Giang Thanh khi đó thường nói rằng: “Bành Đức Hoài dưỡng bệnh mà cứ béo phây phây lại chưa bị đấu tố công khai lần nào cả“.
Sang năm 1967, nhóm Giang Thanh – Lâm Bưu quyết định thành lập tổ chuyên án đấu tố Bành. Ngày 21/6/1967, tổ chuyên án chính thức tiến hành thẩm vấn Bành Đức Hoài lần thứ nhất.
Họ muốn ông giao nộp bằng chứng về tội phản quốc và tổ chức nhóm phản đảng. Bành tức tối trả lời: “Các cậu không hiểu hết sự việc, trẻ con không hiểu chuyện“. Sau đó, tổ chuyên án lấy danh nghĩa của tổ chức yêu cầu ông viết tự truyện.
Bành Đức Hoài (trái) và Mao Trạch Đông
Một tháng sau, ngày 19/7, khi Bành đang miệt mài viết tự truyện thì bị lôi đi “họp”. Ban đầu chưa hiểu rõ chỉ đến khi chiếc xe Jeep chở đến Học viện Hàng không Bắc Kinh, ông mới hiểu rằng, họ đưa ông đi đấu tố.
Tại cuộc họp, đối diện với hơn 60 Hồng vệ binh, Bành Đức Hoài phải trả lời về mục đích việc phát động cuộc Đại chiến Bách Đoàn. Đây là cuộc chiến do Bành chỉ huy hơn 100 quân đoàn tại khu vực phía Bắc Trung Quốc giao tranh với quân đội Nhật Bản năm 1940-1941.
“Cuộc chiến Bách đoàn có xin chỉ thị của Chủ tịch Mao không?“, một Hồng vệ binh hoạnh họe.
“Đã đánh điện báo. Chủ tịch và Quân ủy đã gửi điện mừng“, Bành Đức Hoài đáp trả.
Nghe đến chuyện Mao Trạch Đông đã gửi điện mừng, nhóm Hồng vệ binh không biết phải thẩm vấn thế nào nên đã họp hội ý riêng.
Đúng lúc này, Hàn Ái Xương – một cán bộ phụ trách đảng ủy Đại học Hàng không Bắc Kinh bất ngờ xuất hiện, chỉ trích Bành đã “lập nước riêng” tại khu vực phía Bắc Trung Quốc, khép ông vào tội “che giấu lãnh đạo”, “tiết lộ bí mật quân đội”, “cố ý chỉ đường cho đối phương khiến quân đội Trung Quốc chịu tổn hại lớn”…
Bành tức giận, ngắt lời Hàn, thuật lại về cuộc đại chiến Bách đoàn khiến rất nhiều Hồng vệ binh trong hội trường ngẩn người lắng nghe câu chuyện chiến trận của Bành.
Bành Đức Hoài (trái) và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Nhật Thành
Về sau, tổ chuyên án đã ghi trong báo cáo: “Bành Đức Hoài không biết xấu hổ, lại dương dương tự đắc coi bản thân là người hùng”.
Hàn Ái Xương tiếp tục đổ tội phản đảng, phản đối Mao Trạch Đông cho Bành. Hội trường nhiều người đã hô vang khẩu hiệu đòi đả đảo ông.
Hàn tức tối chỉ thẳng mặt Bành: “Ông có chống đối Chủ tịch [Mao Trạch Đông] không?“.
“Tôi không chống đối, tôi và Chủ tịch chỉ là không có chuyện để nói mà thôi“, Bành đáp.
Ngay lập tức, Hàn giơ một cú đấm khiến Bành lảo đảo ngã xuống đất. Nhóm Hồng vệ binh lôi ông dậy và luân phiên đánh ông. Khi ông chỉ kịp ú ớ: “Đồng chí trẻ, cậu đừng nóng giận, cậu không hiểu chuyện…“, chưa kịp nói hết câu, một đám người lại xông tới đấm vào bụng khiến ông lộn nhào xuống mặt sàn, lấm lem đất cát.
“Các cậu sao có thể đối xử với một người sắp 70 tuổi như thế được!”, ông Bành hét lên đầy phẫn nộ.
Nguyên soái Bành Đức Hoài đi bỏ phiếu năm 1954.
Hội trường trở nên náo loạn. Ông cứ bị lôi lên đánh xuống liên tiếp bảy lần như vậy. Cuối cùng, một bàn chân to khỏe đạp thẳng vào ngực phải khiến ông ngã xuống đau đớn.
“Giai cấp tiểu tư sản ngông cuồng có phải là chỉ Chủ tịch?“, Hàn Ái Xương hỏi. Bành Đức Hoài gật gật đầu. Hàn đã nhân cơ hội đó ghi lại câu trả lời vào báo cáo và ép Bành điểm chỉ, ký tên.
Sau đó, Bành nửa tỉnh nửa mê được dìu về phòng giam và bị ép viết thư nhận tội cả đêm.
Tư lệnh cảnh vệ Phó Sùng Bích đêm đó nhận được thông tin về tình hình của Bành Đức Hoài nên điện trách Hàn Ái Xương đã ra tay quá mạnh. Hàn liền gọi điện về cho tổ chuyên án và nhận được lệnh “không nên nặng tay nhưng đối với Bành cũng không cần quá kiêng nể”.
Hôm sau 20/7, do bị trọng thương từ cuộc đấu tố hôm trước nên Bành được đưa đến bệnh viện. Phó Sùng Bích đã báo cáo tình hình lên Thủ tướng Chu Ân Lai. Ngay sau đó, Chu đã ra chỉ thị bảo đảm an toàn cho Bành.
Bà Phố An Tu
Đến ngày 25/7, tại quảng trường Thiên An Môn, Lâm Bưu tổ chức hội nghị và hô hào khẩu hiệu “đả đảo nhóm tư sản trong quân đội”.
Điều này khiến một “tù nhân” như Bành Đức Hoài lại thêm tội danh mới: đại diện tiêu biểu của phái tư sản trong quân đội.
Từ ngày 26/7, Bành vốn đang trọng thương những đã bị lôi đi diễu hành, đấu tố ở khắp các đơn vị cơ quan, trường học tại Bắc Kinh.
Đặc biệt, cuộc đấu tố tại sân vận động phía Nam Đại học Hàng không Bắc Kinh với hàng trăm nghìn người tham gia, Bành bị đánh đập, xách tai, giật tóc. Sau đó, họ lôi ông đến đấu tố tiếp tại quảng trường Thiên An Môn.
Vợ chồng cách biệt, gặp nhau trong nước mắt
Không chỉ ông chịu lăng nhục mà vợ ông – bà Phố An Tu cũng bị liên lụy. Bà vốn là Phó Bí thư đảng ủy Đại học Sư phạm Bắc Kinh nhưng vì là vợ của Bành Đức Hoài nên bà cũng được liệt vào danh sách phe tạo phản.
Khi nguyên soái Bành Đức Hoài bị bắt, nhà ông bị lục soát, bà Phố An Tu bị đưa vào đội hậu cần, ban ngày làm việc vất vả, ban đêm chỉ được ngủ trên tấm đệm rách mỏng được trải trên nền đất ẩm ướt trong phòng tắm.
Trong người bà cất giữ duy nhất tấm ảnh của chồng với 28 năm kỷ niệm. Tuy nhiên, không may, trong một lần không cẩn thận, bức ảnh bị phát hiện, họ liền lôi bà đi đấu tố. Bà bị phạt đi chân đất khiêng đồ.
Bành Đức Hoài bị đấu tố
Sau đó, họ khép bà vào tội “làm những việc không trong sạch” và lôi đi xem cảnh một người già vì không thẳng thắn nhận tội nên bị treo đánh trên cây.
Ngày 11/8/1967, Phố An Tư bị một nhóm Hồng vệ binh áp giải đến Đại học Bắc Kinh. Bà bất chợt nhìn thấy một người ngồi trên chiếc xe ba bánh với dáng vẻ tiều tụy. Vừa nhìn, bà nhận ra đó là chồng bà – Bành Đức Hoài. Ông cũng nhận ra bà nhưng không ai dám cất lời mà cúi đầu lặng thinh.
Thấy bà quần áo rách rưới, cơ thể gầy yếu, ông run rẩy và bật khóc. 19 giờ tối hôm đó, hai vợ chồng nguyên soái bị lôi đi đấu tố.
Phố An Tu bị hai thanh niên vạm vỡ giật ngược hai cánh tay ra phía sau và ấn mạnh đầu. Đồng thời, bên tai bà văng vẳng giọng nói của một Hồng vệ binh – người này tuyên bố tội danh của Bành Đức Hoài cũng như tội cấu kết với phần tử phản đảng của bà.
Bà đau khổ liếc nhìn sang phía chồng, thấy ông dù đang bị tra tấn mạnh tay cũng vẫn ngóng tìm bà. Ngay sau đó, bà bị đánh ngất đi, đến khi tỉnh dậy cũng không còn nhớ tình cảnh cuộc đấu tố nữa.
Sau đó, tổ chuyên án cử người đến tra khảo bà về tội danh của Bành Đức Hoài nhưng bà không hé nửa lời. Họ tiếp tục tra tấn bà bằng cách, chèn đòn gánh lên vai bà, đập đầu bà vào tường kêu bôm bốp.
Vừa đập, họ vừa cảnh cáo: “Nếu không giao tội danh của họ Bành, sẽ đập nát đầu chó của ngươi“.
Sau này đến tháng 10/1967, biên bản thẩm vấn Phố An Tu đăng trên tạp chí của Hồng vệ binh có ghi: “Yêu phụ Phố An Tu từ chối khai báo về tội danh của tên giặc họ Bành, cố ý phản kháng đến cùng“.
Ngày 31/8, bà được đưa đến bệnh viện thuộc Học viện y học Bắc Kinh thăm khám. Bác sĩ phát hiện trên người bà một chiếc huy hiệu. Ngay hôm sau, tổ chuyên án ra lệnh cho bà xuất viện, đưa về quản thúc nghiêm ngặt.
Cái tát giáng trời đầy hằn học của cấp dưới
Sau cuộc đấu tố tại Đại học Bắc Kinh, tinh thần và sức khỏe của Bành Đức Hoài ngày càng trở nên kiệt quệ.
Ngày 16/8, Bành Đức Hoài nằm trong nhà giam nghe thấy lệnh bộ đội tập hợp trong sân và tiếng loa phát thanh: “Nghị quyết Hội nghị toàn thể trung ương lần thứ 8 khóa VIII ĐCSTQ về nhóm phản đảng do Bành Đức Hoài đứng đầu”.
Theo nghị quyết, ông bị tước danh hiệu đảng viên và khép vào tội phản đảng, chống đối lãnh tụ và theo phe tư sản.
Ngay ngày hôm sau, các mặt báo tràn ngập thông tin về tội danh của Bành Đức Hoài, phong trào đả đảo ông cũng dâng cao ở khắp Trung Quốc.
Ngày 18/8, do không “nhận tội”, Bành tiếp tục bị đưa đi đấu tố 12 lần ở khắp các đơn vị. Đặc biệt, có những ngày nóng như thiêu như đốt, Bành Đức Hoài vẫn bị hai thanh niên to khỏe lôi lên khán đài đấu tố.
Trong đó, tại cuộc đấu tố ở quân khu Bắc Kinh, Bành bị đánh trọng thương ở lưng, tại cuộc đấu tố ở khu cảnh vệ Bắc Kinh, Bành bị tướng quân Lý Chung Kỳ tát một cái trời giáng. Lý là người trước đây bị Bành Đức Hoài phê bình.
Cứ sau mỗi cuộc đấu tố trở về, Bành lại phải viết một bộ tự truyện về bản thân.
Theo một lính cảnh vệ kể lại, những ngày bị đấu tố, Bành phải dành một tiếng viết tự truyện, ngày không bị đấu tố thì phải viết liền mười hai, mười ba tiếng đồng hồ.
Cái chết “thay họ đổi tên” ai oán
Trong suốt những năm Cách mạng Văn hóa, Bành Đức Hoài bị Hồng vệ binh bắt, giam lỏng trong một doanh trại quân đội ở ngoại ô Bắc Kinh với điều kiện vệ sinh tồi tệ, không được chăm sóc y tế.
Tháng 4/1973, Bành Đức Hoài được xác định là bị ung thư trực tràng ở giai đoạn cuối. Do suy nhược sau khi mổ và tâm trạng tồi tệ nên các tế bào ung thư nhanh chóng lan rộng.
Phòng bệnh của Bành nằm ở gian sau cùng phía Tây bệnh viện. Phòng bệnh này chỉ rộng khoảng 10m² này và được đóng cửa kín mít. Ở gần cuối giường, luôn có một cảnh vệ lạnh lùng đứng im chằm chằm theo dõi ông. Cảnh vệ thay phiên nhau đến canh giữ ông mỗi ngày.
Họ tra tấn ông bằng mọi hình thức như khi ông muốn viết chữ, thì không đưa bút, ông muốn nghe đài phát thanh, thì không có radio nhằm hạn chế mọi hoạt động của ông.
Lễ truy điệu nguyên soái Bành Đức Hoài được tổ chức long trọng vào năm 1978
Khi nhìn thấy một bác sĩ mới đến, Bành thường chỉ tấm thẻ ở đầu giường bệnh nói: “Tôi không phải gọi là ‘bệnh nhân số 145′, tôi là Bành Đức Hoài ở hội nghị Lư Sơn!“.
Trong những ngày cuối cùng, tâm trạng của ông càng trở nên thất thường. Có lúc thì chán nản bực bội, có lúc thì ngẩn ngơ nhìn ra cửa sổ, có lúc thì nhắm nghiền đôi mắt thở dài, có lúc âm thầm rơi lệ, miệng không ngừng nhắc về những chuyện cũ, có lúc ông tức giận đòi ra ngoài, gặp Mao Trạch Đông chứng minh trong sạch.
Cuối cùng, đến 15h35 ngày 29/11/1974, ông trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 76.
Đến 17/12/1974, di thể ông được bí mật đem đi hỏa táng. Nhằm che giấu sự việc, tên ông bị đổi thành Vương Xuyên.
Năm 1978, tại Hội nghị toàn thể trung ương 3 khóa XI của ĐCSTQ, trường hợp của nguyên soái Bành Đức Hoài được xem xét lại, án oan được cải chính và những đóng góp của ông được khẳng định.