Du lịch Phủ Tùng Thiện Vương
Phủ Tùng Thiện Vương là phủ đệ của Nguyễn Phúc Miên Thẩm, con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, em trai của vua Thiệu Trị. Phủ hướng mặt ra dòng sông “nắng đục mưa trong” và chợ An Cựu như là chốn lý tưởng cho việc lựa chọn để xây dựng nhà cửa như lời của tiền nhân.
Tùng Thiện Vương sinh thời là một nhà thơ Việt Nam thời nhà Nguyễn. Thơ của ông dù viết theo thể loại nào, dù mang nội dung cảm hoài, ngôn chí hay thù tạc…, tất cả đều có văn pháp giản dị, ý tứ thâm sâu, chữ nghĩa chọn lọc, đều mang tính hiện thực cao, chứa đựng tinh thần yêu nước, thương dân, hết lòng vì bè bạn. Có thể kể đến một bài như “Phù lưu tiền hành”, “Mại trúc dao”, “Kim hộ thán”, “Bộ hổ từ”…
Quá trình thành lập phủ Tùng Thiện Vương có thể kể bắt đầu năm Kỷ Hợi tức 1838 sau khi được phong tước Tùng Quốc Công, ông được lập phủ đệ ở ngang phủ đệ Tuy Lý Vương tại phường Liêm Năng trong Kinh thành, phía đông Lục Bộ. Tuy nhiên vì thích thú với cảnh đẹp của sông Lợi Nông, ông cho dời phủ đệ từ phường Liêm Năng đến bờ Bắc con sông ấy, đắp núi, đào hồ, dựng phủ mới đặt tên là “Ký Thưởng Viên”.
Trước khi xây dựng Ký Thưởng Viên, ông cho dựng Tiêu Viên trong vòng 3 năm từ1846 đến 1849. Sau khi xây dựng xong, ông rước mẹ là Thục Tần về phụng dưỡng. Năm 1851, bà Thục Tần mất, Tiêu Viên trở thành từ đường thờ tự mẹ ông, còn Ký Thưởng Viên thành ra nhà dạy học. Từ năm 1870, sau khi Tùng Thiện Vương mất, phủ đệ lại thành ra từ đường thờ tự ông và con cháu. Đây cũng chính là hai công trình kiến trúc quan trọng nhất trong cấu trúc tổng thể của phủ Tùng Thiện Vương, tạo thành hai nếp nhà nằm song song, với bố cục mặt bằng nhà hình chữ nhị.
Phủ Tùng Thiện Vương là một vương phủ bề thế và quy mô, cả trong lẫn ngoài có đến 16 công trình kiến trúc. Thương Hà Bạch Lộ đường là nơi để tiếp đãi sĩ phu, cũng là nơi tiếp nhận các bản thảo thi văn của vua Tự Đức do Thị vệ chuyển từ Đại Nội sang để Tùng Quốc công nhuận sắc giúp vua. Mô trường nơi Tùng Quốc công cùng các huynh đệ, bằng hữu, con cháu, học trò ngâm vịnh thi phú. Bạch Bí là nơi ở của các bà vợ của Tùng Quốc công. Tùng Vân là thư phòng để thơ văn và bút nghiên. Cổ Cầm đình là nơi Tùng Quốc công đàn hát, đánh cờ, chơi mạt chược với gia nhân và bằng hữu. Mặc Vân sào nơi lưu trữ và tra cứu kinh, sử, tử, truyện của Nho giáo. Xuy Tiêu ủy nơi Tùng Quốc công thường thổi sáo trúc cùng các nghệ nhân. Sở Tụng đình là vườn trồng cam, quýt, bưởi, phật thủ…
Bởi vậy, nếu như các phủ đệ khác đều được xem như biệt phủ của các ông hoàng, bà chúa thì phủ Tùng Thiện Vương là nơi lui tới đàm đạo thơ văn giữa các Nho sĩ đương thời, các tao nhân mặc khách, trong đó phải kể đến Khâm sứ triều đình mãn Thanh Lao Sùng Quang cũng vì mến mộ tài năng của chủ nhân mà tới đây đàm đạo văn chương, thế sự.