Vua Lý Huệ Tông

LỊCH
SỬ VIỆT NAM THỜI TỰ CHỦ.

Lý Huệ Tông

[1211-1224]

Niên
hiệu:

Kiến
Gia

[1211-1224]

Hồ
Bạch Thảo

Vào
cuối năm 1210, Vua Cao Tông không khỏe, lập Thái tử Sảm
lên kế vị, miếu hiệu là Huệ Tông. Nhà Vua tôn mẹ Đàm
thị làm Hoàng thái hậu, sai đón vợ là người con gái
họ Trần về làm Hoàng hậu:

Mùa
đông, tháng 10, năm Trị Bình Long Ứng thứ 6 [1210]
,
vua không khỏe, gọi Đỗ Kính Tu vào nhận mệnh ký thác.
Ngày 28 Nhâm Ngọ, vua băng ở cung Thánh Thọ.

Hoàng
thái tử Sảm lên ngôi ở trước linh cữu bấy giờ mới
16 tuổi. Tôn mẹ là Đàm thị là Hoàng thái hậu, cùng
nghe chính sự. Lại đem thuyền rồng đi đón Trần thị.
Anh Trần thị là Trần Tự Khánh cho rằng bấy giờ đương
lúc loạn lạc, chưa đưa đi ngay được.”
Toàn Thư,
Bản Kỷ quyển 4.

Năm
sau Vua chọn niên hiệu là Kiến Gia năm thứ nhất, đón
Hoàng hậu họ Trần về, phong cho người anh Hoàng hậu là
Trần Tự Khánh làm Chương thành hầu:

Ngày
Tân Mùi
, mùa xuân, tháng giêng năm Kiến Gia thứ 1
[1211], đổi niên hiệu. Tháng 2, vua lại sai Phụng ngự là
Phạm Bố đi đón Trần thị. Tự Khánh bèn sai bọn Phùng
Tá Chu đưa Trần thị đi. Gặp khi Tô Trung Từ và Đỗ
Quảng đang đánh nhau ở bến Triều Đông
[bến phía
đông thành Hà Nội], Tá Chu bèn đỗ thuyền ở bến
Đại Thông. Đến khi Đỗ Quang bị thua, vua sai Bố và
Trung Từ đón Trần thị vào cung, lập làm nguyên phi; cho
Trung Từ làm Thái uý phụ chính; phong Thuận Lưu bá Trần
Tự Khánh làm Chương Thành hầu
.” Toàn Thư,
Bản
Kỷ quyển 4.

Triều
Tống nhận được tin Vua Cao Tông mất, sai Sứ sang điếu
tế, và phong Vua Lý Huệ Tông tước An Nam Quốc vương,
giống như Vua cha:

Năm
Gia Định thứ 5 [1212] Long Cán mất, chiếu sai Vận phán
Quảng Tây Trần Khổng Thạc làm Điếu tế sứ, đặc
cách tặng chức Thị trung. Y theo chế
đ
đối với Quốc vương An Nam trước kia, người con là Hạo
Sam thế tập, được phong như Long Cán lúc mới lên ngôi,
vẫn được ban chức Thôi thành thuận hoá công thần. Sau
đó không thấy biểu cảm tạ, nên kém việc gia ân
.”
Tống Sử
, quyển 488, Giao Chỉ.

(嘉定五年,龍榦卒。詔以廣西運判陳孔碩充弔祭使,特贈侍中。依前安南國王制,以其子昊旵襲封其爵位,給賜如龍榦始封之制,仍賜推誠順化功臣。其後謝表不
至,遂輟加恩。)

Bấy
giờ trong nước giặc giã nổi lên, nhà Vua suy nhược,
quan phụ chính Đàm Dĩ Mông thì bất tài, nên chính sự
trở nên đổ nát:

Năm
Kiến Gia thứ 1 [1211], Bấy giờ thừa hưởng
thái bình đã lâu ngày,
rường mối
dần bỏ,
dân không biết việc binh, giặc cướp nổi lên không ngăn
cấm được. Vua mới lên ngôi, đem việc nước giao cho
Thái uý Đàm Dĩ Mông. Dĩ Mông là người không có học
thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết
đoán, chính sự ngày một đổ nát
.” Toàn
Thư
, Bản Kỷ quyển 4.

Nhà
Vua sai người thân là Đoàn Thượng chiêu mộ dân đinh đi
đánh giặc, Thượng tự tiện làm càn, bị bắt rồi trốn
thoát; sau đó xây thành tại Hồng châu [Hải Dương] làm
loạn:

Mùa
xuân, tháng 2 năm Kiến Gia thứ 2 [1212], sai người cùng
một vú nuôi là Đoàn Thượng chiêu mộ dân châu Hồng đi
bắt giặc cướp. Bấy giờ thế nước suy yếu, triều
đình không có chính sách hay, đói kém luôn luôn, nhân dân
cùng khốn, Đoàn Thượng thừa thế tự tiện làm oai làm
phúc, không ai dám nói gì. Sau tội trạng tỏ rõ, bị các
quan hặc, phải giam vào ngục để hỏi tội. Thượng mới
rút gươm, cởi trần chạy về châu Hồng, nhóm họp bè
đảng, đắp thành xưng vương, cướp bóc lương dân,
triều đình không thể ngăn được
.” Toàn Thư,
Bản Kỷ quyển 4.

Kinh
thành lúc bấy giờ không được yên ổn, vào năm sau
[1213] Trần Tự Khánh xin đón xa giá, nhà Vua nghi ngờ
xuống chiếu mang quân đi bắt Tự Khánh; giáng Hoàng hậu
họ Trần, em Khánh, làm Ngự nữ:

Ngày
Quý D
u tháng 2
năm Kiến Gia thứ 3
[1213], Trần Tự Khánh đem quân xâm phạm cửa khuyết xin
đón xa giá. Vua lấy làm ngờ, xuống chiếu lấy quân các
đạo đi bắt Tự Khánh, giáng nguyên phi làm Ngự nữ
.”
Toàn Thư
, Bản Kỷ quyển 4.

Trần
Tự Khánh lại đến đón xa giá thêm 2 lần nữa, nhà Vua
vẫn chưa tin; tiếp tục trốn tránh:

Ngày
Giáp Tu
t tháng giêng năm
Kiến
Gia thứ 4 [1214], Trần Tự Khánh đem quân đến bến Triều
Đông, tự vào quân môn tạ tội, lại xin đón xa giá. Vua
càng ngờ, bèn cùng với thái hậu và ngự nữ chạy đến
núi Trĩ Sơn ở châu Lạng
[Lạng Sơn]. Tự Khánh
nghe tin xa giá long đong mà ngự nữ thì lâu nay bị thái
hậu làm khổ, lại đem quân đến xin đón xa giá như
trước. Vua cũng chưa tin, lại cùng với thái hậu và ngự
nữ chạy sang huyện Binh Hợp
.

Mùa
hạ, tháng 5, Tự Khánh đánh Đinh Khả và Bùi Đô ở châu
Đại Hoàng
[tây Nam Định], phá tan được.”
Toàn Thư
, Bản Kỷ quyển 4

Sau
khi Trần Tự Khánh mang quân dẹp được bọn giặc Đinh
Khả và Bùi Đô khiến nhà Vua có phần tin tưởng; lại
nhân Thái hậu rắp tâm giết Phu nhân họ Trần, người
Vua thương yêu, nên nhà Vua tự nguyện đi tìm Tự Khánh
để được phò giúp:

Mùa
xuân năm
Kiến
Gia thứ 6 [1216], sách
phong ngự nữ làm Thuận Trinh phu nhân. Thái hậu cho Trần
Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ phu nhân mà nói
là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi bỏ đi; lại sai
người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Vua biết mới
ngăn lại. Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của
phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một n
a
và không lúc nào cho rời bên cạnh. Thái hậu lại sai
người cầm chén thuốc độc bắt phu nhân phải chết.
Vua lại ngăn không cho, rồi đêm ấy cùng với phu nhân
lẻn đi đến chổ quân của Tự Khánh; gặp khi trời đã
sáng, phải ngh
lại ở nhà tướng
quân Lê
Mịch ở huyện Yên Duyên, gặp tướng của Tự Khánh là
Vương Lê đem binh thuyền đến đón. Vua mới đỗ lại ở
bãi Cửu Liên. Truyền cho Tự Khánh đến chầu.”

Toàn Thư
, Bản Kỷ quyển 4.

Sau
khi Phu nhân sinh Công chúa, nhà Vua tái phong Phu nhân làm
Hoàng hậu, rồi phong cho 2 người anh ruột Hoàng hậu là
Trần Tự Khánh, và Trần Thừa làm quan to. Hai người lo
xếp đặt quân ngũ, đánh bại quân Chiêm Thành và Chân
Lạp đến cướp phá châu Nghệ An:

Mùa
hạ, tháng 6
năm Kiến
Gia thứ 6
[1216], hoàng trưởng nữ sinh ở bãi Cửu Liên, sau phong
làm công chúa Thuận Thiên.

Mùa
đông, tháng 12, sách phong Thuận Trinh phu nhân làm hoàng
hậu, phong Tự Khánh là Thái uý phụ chính, cho anh trai Tự
Khánh là Trần Thừa
(tức Thượng hoàng nhà Trần) làm
Nội thị phán thủ. Tự Khánh cùng với Thượng tướng
quân Phan Lân xếp đặt quân ngũ, chế tạo binh khí, luyện
tập võ nghệ, quân thế dần dần phấn chấn.

Vua
có bệnh trúng phong, chữa thuốc không khỏi mà chưa có
thái tử, trong cung chỉ sinh công chúa mà thôi.”

Chiêm
Thành và Chân Lạp đến cướp châu Nghệ An, châu bá là
Lý Bất Nhiễm đánh phá được
.” Toàn Thư, Bản
Kỷ quyển 4

Bấy
giờ nhà Vua bị bệnh tâm thần, không điều hành được
việc nước, nên quyền lực dần dần chuyển về tay họ
Trần:

Ngày
Đinh S
u, Mùa
xuân, tháng 3 năm Kiến
Gia thứ 7 [1217], vua dần dần phát điên, có khi tự xưng
là Thiên tướng giáng, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ
vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều không nghỉ,
khi thôi đùa nghịch thì đổ mồ hôi, nóng bức khát
nước, uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh.
Chính sự không quyết đoán, giao phó cả cho Trần Tự
Khánh. Quyền lớn trong nước dần dần về tay kẻ khác
.”
Toàn Thư
, Bản Kỷ quyển 4.

Vào
năm 1218, Công chúa thứ 2 ra đời, đặt tên là Chiêu
Thánh, sau được Vua nhường ngôi, tức Lý Chiêu Hoàng.
Cũng vào năm này ra lệnh bắt viên Cư sĩ chùa Phù Đổng
(1) Nguyễn Nộn, gây nên mối loạn kéo dài mãi đến hơn
10 năm sau; Trần Tự Khánh mang quân đánh dân tộc thiểu
số tại huyện Chương Mỹ, Hà Tây, nhưng không dẹp được.
Riêng tại Nghệ An; Chiêm Thành và Chân Lạp mang quân đến
đánh phá lần thứ hai, đều bị Bá trưởng Lý Bất
Nhiễm đánh tan:

Ngày
M
u Dn
mùa thu, tháng 8 năm
Kiến Gia thứ 8 [1218], xuống chiếu bằt cư sĩ ở chùa
Phù Đổng [Từ Sơn, Bắc Ninh] là Nguyễn Nộn, vì bắt
được vàng ngọc mà không đem dâng.

Tháng
9, hoàng thứ nữ sinh, sau phong làm công chúa Chiêu Thánh.
Mùa đông, tháng 10, Trần Tự Khánh đi đánh người Man ở
Quảng Oai
[huyện Chương Mỹ, Hà Tây] không dẹp
được
.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.


Bất Nhiễm giữ chức bá trưởng châu Nghệ An. Năm Kiến
Gia thứ 6 (1216), Chiêm Thành và Chân Lạp vào cướp, Bất
Nhiễm đã đánh bại rồi; đến đây lại đánh được
lần nữa. Vì có công như thế, Bất Nhiễm được phong
tước hầu, ban thái ấp, được hưởng lộc đúng với
thực số 1500 hộ
.” Cương
Mục
, Chính Biên, quyển 5.

Trần
Tự Khánh xin tha cho Nguyễn Nộn, rồi sai đi đánh giặc
tại Quảng Oai. Sau đó Nộn mang quân về giữ đất Phù
Đổng, tự xưng Vương, lại xin mang quân xin đi đánh giặc
chuộc tội, thế lực ngày một lớn triều đình không
chế ngự được:

Ngày
K
Mão tháng 2
năm Kiến Gia thứ 9
[1219], Trần Tự Khánh tâu xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi
theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua y cho. Mùa đông,
tháng 10, sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở
Quảng Oai
.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.

Ngày
Canh Thìn tháng 3 năm
Kiến
Gia] năm thứ
10 [1220], Nguyễn Nộn giữ hương Phù
Đổng,
tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin
đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua sai người đem sắc thư
đến tuyên dụ. Song vì vua có bệnh phong, không thể chế
ngự được
.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.

Nhà
Vua bị bệnh nặng, triều đình lo tìm thầy thuốc giỏi
khắp nơi để trị bệnh nhưng không hiệu nghiệm; bên
ngoài thì giặc cướp khắp nơi, khiến dân chúng rất cực
khổ:

Ngày
Tân T
ỵ tháng giêng năm Kiến
Gia
thứ 11 [1221], tìm khắp thầy thuốc trong nước để chữa
bệnh cho vua, nhưng không hiệu nghiệm gì. Vua thì ở tít
trong cung, giặc cướp bừa bãi, nhân dân ở ngoài thành
lưu ly cực khổ lắm
.” Toàn Thư, Bản Kỷ
quyển
4.

Đối
phó với loạn lạc, cho làm thêm ghe thuyền và đúc thêm
binh khí; bấy giờ đất nước được chia thành 24 lộ,
bèn đem chia cho các Công chúa:

Ngày
Nhâm Ngọ tháng 2 năm
Kiến
Gia thứ 12 [1222], chia trong nước làm 24 lộ, lộ chia cho
công chúa ở, lấy các hoành nô thuộc lệ và quân nhân
bản lộ, chia nhau làm giáp. Làm đồ binh khí và ghe thuyền
để tuần bắt giặc cướp
.” Toàn Thư, Bản Kỷ
quyển 4.

Vào
năm 1223 Trần Tự Khánh mất, dùng người anh là Trần
Thừa làm Phụ quốc thái úy, quyền lực lớn vào chầu
không phải xưng tên. Bên ngoài thì thế lực giặc Nguyễn
Nộn ngày mỗi manh, dân đói khổ vì thiên tai hạn hán và
nạn sâu keo:

Ngày
Quý Mùi tháng 10 năm
Kiến
Gia thứ 13
[1223], hạn hán, lúa bị sâu cắn. Tháng 12, thế quân của
Nguyễn Nộn ngày càng mạnh. Trần Tự Khánh chết, truy
phong làm Kiến Quốc Đại Vương; lấy Trần Thừa làm Phụ
quốc Thái uý, khi vào chầu không xưng tên.
Toàn
Thư
, Bản Kỷ quyển 4.

Riêng
về mặt quân sự, ủy cho người em họ Hoàng hậu là
Trần Thủ Độ nắm hết quyền lực. Tháng 10 năm Kiến
Gia thứ 14 [1224], xuống chiếu truyền ngôi Vua cho Công
chúa Chiêu Thánh; cũng vào tháng này đổi niên hiệu là
Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ nhất, tôn hiệu là Chiêu
Hoàng. Riêng nhà Vua thì xuất gia, trụ trì tại chùa Chân
Giáo trong thành:

Năm
Kiến Gia thứ 14 [1224], (Từ tháng 10 về
sau là
niên hiệu của Chiêu Hoàng Thiên Chương Hữu Đạo năm
thứ 1; Tống Gia Định năm thứ 17). Bệnh của vua ngày
càng tăng mà không có con trai để nối nghiệp lớn, các
công chúa đều được chia các lộ làm ấp thang mộc, uỷ
nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh
các quân điện tiền hộ vệ cấm đình.

Mùa
đông, tháng 10, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh
làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở
chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, đổi
niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu
là Chiêu Hoàng
.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4.

Hồ Bạch Thảo

Phụ
lục: 


Chiêu Hoàng

[1224-1225]
Niên
hiệu:
Thiên
Chương Hữu Đạo
1224-1225


Chiêu Hoàng tên huý là Phật kim, sau đổi là Thiên Hinh,
con gái thứ của Huệ Tông. Huệ Tông không có con trai nối
dõi, lập nàng làm Hoàng thái tử để truyền ngôi, ở
ngôi được 2 năm [1224-1225] rồi nhường ngôi cho chồng
là Trần Cảnh. Bấy giờ Cảnh tuổi còn nhỏ tuổi, nên
các quan mời người cha là Trần Thừa nhiếp chính:

Ngày
t Du tháng
10 năm
Thiên Chương
Hữu Đạo năm thứ 2 [1125], xuống chiếu tuyển con em của
quan viên trong ngoài sung vào các sắc dịch trong nội, như
lục hỏa thị cung ngoại, Chi hậu Nội nhân thị nội
(2), ngày đêm thay phiên nhau chầu hầu. Điện tiền chỉ
huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong
ngoài thành thị. Cháu g
i
Thủ Độ bằng chú là Trần Bất Cập làm Cận thị thự
lục
cục chi
hậu (3), Trần Thiêm làm
Chi ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ (Cảnh sau là Trần
Thái Tông). Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi, chực hầu ở
bên ngoài. Một hôm phải giữ việc bưng nước rửa, nhân
thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa,
mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy
Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm
lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng
chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước
té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh
bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không
dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói:

Nếu
thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt
tộc đây?’.

Lại
một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh,
Cảnh lạy rồi nói:

Bệ
hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh’.

Chiêu
Hoàng cười và nói:

Tha
tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó’.

Cảnh
lại về nói với Thủ Độ.
Thủ
độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới
tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ
đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các
quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng:

Bệ
hạ đã có chồng rồi’.

Các
quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy,
ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng:

Từ
xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ.
Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển,
các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì
thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước
nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên
ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn
nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người
giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ
nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ
sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm
người
hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày
khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói
“Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ
không nguôi, lâu thay lâu thay!”

Nay
trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là
người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền
nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn
võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn
được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường
ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong
đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc
thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều
biết’.

Tháng
12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở
điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều
phục vào chầu, lạy ở dưới sân.

Chiêu
Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng
đế. Đổi niên hiệu là Kiến trung năm thứ 1, đại xá
thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng (4), sau đổi là Văn Hoàng.
Bầy tôi dâng tôn hiệu là
Khải
Thiên
Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế. Phong Trần Thủ
Độ làm Quốc thượng phụ, nắm
giữ
mọi việc cai trị trong nước. Thủ Độ nói:

Hiện
nay giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng. Đoàn

Thựợng giữ mạn đông, Nguyễn Nộn giữ mạn
bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn (5) cũng chưa dẹp
yên. Nhà

suy yếu, thế nước nghiêng
nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh vác nổi, mới uỷ
thác cho Nhị lang
[Chàng
Hai]. Nhưng Nhị
lang chưa am hiểu việc nước, chính sự nhiều chổ thiếu
sót, vận nước mới mở, lòng dân chưa phục, mối họa
không phải là nhỏ. Ta tuy là chú nhưng không biết chữ
nghĩa gì, còn phải
rong
ruổi đông tây
để chống giặc cướp, không gì bằng mời thánh phụ
làm thượng hoàng tạm coi việc
nước,
một hai năm sau thiên hạ nhất thống, lại giao quyền
chính cho Nhị lang’.

Các
quan đều cho là
phải,
mời thánh phụ
Trần Thừa nhiếp chính
.” Toàn Thư, Bản Kỷ
quyển 4.

Sử
Trung Quốc, Tục Tư Trị Thông GiámTống
Sử

cũng chép tương tự, nhưng vắn tắt hơn:

Tục
Tư Trị Thông Giám
, quyển 159. Ngày Quí Dậu
tháng 5 Tống Ninh Tông năm Gia Định thứ 5 [28/6/1212],Vương
nước An Nam Lý Long Cán mất, con là Hạo Sam nối ngôi;
đến lúc chết không có con trai, cho con gái là Chiêu Thánh
làm chủ nước. Người rể là Trần Nhật Cảnh được
nhường ngôi. Họ Lý từ Công Uẩn truyền đến 8 đời,
hơn 220 năm
.”

(癸酉,安南國王李龍幹
卒,子昊旵嗣;尋卒,無子,以女昭聖主國事,其婿陳日煚因襲取之。李氏自公蘊八傳,凡二百二十餘年。)

Hạo
Sam mất, không có con trai; cho con gái Chiêu Thánh làm chủ
việc nước, rồi người rể Trần Nhật Cảnh dành được
ngôi
. Họ Lý có được nước từ Công Uẩn đến
Hạo Sam
, truyền ngôi 8 lần, được hơn 220 năm thì
mất
Tống Sử, quyển
488, Giao Chỉ.

(昊旵卒,無子,以女昭聖主國事,遂爲其婿陳日煚所有。李氏有國,自公蘊至昊旵,凡八傳,二百二十餘年而國亡。)

Chú
thích:

1.Phù
Đổng: nay là xã Phù Đổng, thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.

2.Lục
hỏa thị cung ngoại: sáu hỏa có lẽ là sáu đội lính
hầu ngoài cung; Chi hậu, Nội nhân thị nội: các chức
chi hậu và nội nhân hầu bên trong.

3
Cận thị thự lục cục chi hậu: chức chi hậu ở sáu
cục của cận thị thự là thự giữ việc hầu cận vua.

4.Thiện
Hoàng: Hoàng đế được nhường ngôi.

5.Đại
Viễn: Cương Mục chép là Đại Hoàng, tên một châu
thuộc phía tây Nam Định.

Rate this post