Truyện ngắn tác giả trẻ Hoàng Khánh Duy ở Cần Thơ – Hội Nhà Văn Việt Nam
Vanvn- Hoàng Khánh Duy tên thật là Phạm Khánh Duy, sinh năm 1997 tại Cà Mau, tốt nghiệp Cử nhân Ngữ văn Đại học Cần Thơ, đang là học viên Cao học ngành Văn học Việt Nam và dạy ngữ văn trung học phổ thông ở TP Cần Thơ.
Truyện ngắn Hoàng Khánh Duy đa phần gắn liền với miệt vườn sông nước miền Tây, với bóng dáng của những bà má quê, với những người phụ nữ Nam Bộ hiền lành chân chất, chịu thương chịu khó nhưng số phận còn nhiều thua thiệt… Bằng ngòi viết chân thật và trái tim trong sáng, Duy đã chia sẻ với bạn đọc cảm nhận về những điều Chân – Thiện – Mỹ trong cuộc sống.
NHÀ THƠ TRÚC LINH LAN giới thiệu
SÔNG KHÔNG BAO GIỜ THẲNG
Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em
Sông lượn khúc lượn dòng mà đến biển
Bờ bãi loi thoi xóm làng ẩn hiện
Đời sông như đời người trên sông…
Hồi còn sống, ngoại thường hay chỉ ra sông mà nói: “Đó, dòng sông không bao giờ thẳng con ạ! Chỉ một quãng từ đây ra ngoài vàm mà sông đã uốn cong qua bao nhiêu khúc ngoặt, bao nhiêu doi đất. Lòng người cũng vậy đó con à! Mai sau ra đời con sẽ hiểu…”.
Phiến lặng thinh. Những gì ngoại nói có vẻ khó hiểu quá đối với đứa con gái mười ba, mười bốn tóc dài con chưa biết thắt, suốt ngày chân trần chạy nhảy trên đồng chẳng màn chuyện nắng ngấm vào da. Phiến để ý thấy dòng sông cong cong vắt ngang xóm nhỏ, buổi trưa nước ròng, bãi sông là là để lộ đám rong đuôi chó nằm nghển cổ dưới nắng. Những đêm nước lớn, dòng sông tràng giang uốn khúc trong đêm tối. Phiến nằm trong buồng mà nghe rõ mồm một tiếng nước chảy rì rào, bóng trăng lửng lơ đầu hồi và điệu hò phương Nam của một người khách lỡ đường nào đó qua sông vọng về ngọt ngào, sâu lắng…
Năm tháng trôi qua, những tưởng lời của ngoại đã lùi xa vào quá vãng. Nhưng không, mỗi lần Phiến đi ngang qua dòng sông, hoặc cái khoảnh khắc đứng trên cầu cao nhìn những quãng sông hình cánh cung, Phiến lại nhớ đến lời ngoại nói. Sông không bao giờ thẳng tắp một đường rẽ đất tìm về biển cả. Ngoại nói đúng. Người đàn bà ôm túi vải, đầu cổ rối bù và khuôn mặt phảng phất nét khổ đau cũng nói y như ngoại lúc Phiến đang đi dạo trên cầu gỗ lim bên bờ sông Hương. Phiến ngẩn người. Người đàn bà cười khanh khách rồi đi ngược chiều Phiến về phía cầu Trường Tiền. Phiến ngoảnh mặt ra sông. Mưa miền Trung lất phất.
*
Chuyến đò sớm nhất đưa Phiến về với xóm. Ngồi trong khoang đò co ro, từng đợt gió hất vào se lạnh. Trong đò chỉ còn Phiến với người thanh niên ngồi bên cạnh, đoán chừng cũng là tha nhân xa quê lập nghiệp bấy giờ trở lại cố hương. Phiến nhìn ra ngoài, cố lục tìm trong trí nhớ những hình hài quen thuộc. Xóm giờ thay đổi, cả con sông quen cũng thay đổi ít nhiều. Bao lần sông được người nạo vét, những đợt sóng đánh lở đất trôi tuột xuống đáy sông sâu thẳm khiến nó rộng ra hơn. Lòng Phiến bồn chồn. Ngập ngừng vài giây Phiến quay sang hỏi người thanh niên bên cạnh:
– Anh gì ơi, cho tôi hỏi sắp tới xóm Rèn chưa anh?
Người thanh niên nhìn Phiến, hỏi vội:
– Cô về xóm Rèn à? Đò vừa qua khỏi xóm Rèn ấy. Bác lái đò ơi, dừng lại, có cô này đi quá đường rồi nè!
Phiến ngớ người, rồi nhói. Không hiểu sao tự dưng Phiến thấy tim mình nhoi nhói. Thảo nào ban nảy khi đò chầm chậm qua quãng sông cong cong ấy Phiến cảm giác quen thuộc lắm. Hóa ra Phiến đã đi quá xa, xa như chuyến đi thuở thanh xuân Phiến từng dấn thân, lưu lạc…
– Bác ơi, con về xóm Rèn…
– Qua mất rồi! Thôi để bác ghé lại cho con đón chuyến đò ngược chiều về đó. Từ đây quay lại xóm Rèn cũng không xa, con chịu khó đi bộ độ hơn nửa tiếng là tới.
Phiến gật đầu, quay sang cười với anh thanh niên rồi bước lên bờ. Bác lái đò nhìn Phiến, vừa giận vừa thương. Ai đời lại quên bẵng quê hương, làng xóm của mình. Chính Phiến cũng thấy thẹn với lòng mình, với dòng sông dịu êm trong sớm mai đầy nắng. Chiếc đò chầm chậm đi. Phiến cũng chầm chậm bước. Bên bờ sông, con đường cũng cong cong không thẳng. Như sông. Như cuộc đời của Phiến.
*
Mộ ngoại nằm thoi loi giữa đồng cỏ bên bờ sông. Đường ra mộ ngoại có con mươn nhỏ chắn ngang, cây cầu gập ghềnh nối đôi bờ. Ngôi mộ nằm giữa cái nền nhà năm xưa. Ngoại mất, người trong xóm phóng lửa đốt nhà rồi chôn ngoại ở giữa. Cỏ mọc xanh um. Lau sậy phơ phất. Nắng rọi thằng vào khuôn mặt của Phiến.
Người xóm Rèn thấy có cô gái lạ về xóm, tụm năm tụm bảy bàn tán. “Chắc họ hàng xa của bà cụ”, họ bảo vậy. Phiến không nói gì dẫu Phiến nhớ rõ người vừa nói là cô Thư. Nhà cô Thư ở đầu xóm Rèn. Gọi là xóm Rèn vì xưa nay người trong xóm sống bằng nghề rèn đúc là chủ yếu. Lò rèn nhà cô Thư lớn và quy mô nhất xóm ngày trước. Thuở Phiến còn nhỏ, cô Thư thương Phiến, có gì ngon cũng í ới gọi Phiến sang cho. Nghe đâu đời ông nội, ông cố cô Thư ăn ở mất đức, đến đời con cô chịu khổ. Một đêm trộm lẻn vào nhà vơ sạch sẽ tài sản cô tích cóp được. Ngôi nhà tường có hàng bông giấy trước cổng cô Thư cũng bán đi lấy tiền trả nợ rồi dựng nhà lá ở cạnh bên. Phiến định lại chào cô, nhưng lòng trắc trở, đâu ai còn nhận ra con Phiến đầu trần chân đất “quê một cục” năm nào. Phiến đành cúi mặt đi thẳng ra mộ ngoại.
Đến tận bây giờ Phiến vẫn ân hận vì không nhìn được mặt bà ngoại lần cuối. Trong giây phút sinh ly tử biệt, một mình ngoại nằm trong căn nhà đơn độc, lạnh lẽo. Căn nhà ấy, năm xưa hai bà cháu đã từng sống những tháng ngày cơ cực mà ngọt ngào, bữa cơm đạm bạc cá rau, đêm nằm cạnh nhau trao truyền hơi ấm. Mẹ Phiến bỏ đi từ hồi năm nào không ai nhớ, ngoại cũng không nhớ, sau khi ba Phiến mất chừng một tháng. Người trong xóm tung tin đồn mẹ Phiến lên thành phố cặp đại gia, kiếm chát chưng diện bản thân, tô vẽ mặt mày. Cũng bởi trời cho người đàn bà ấy chút nhan sắc lẫn giọng nói đường mật bướm ong. Phiến lớn lên trong vòng tay người bà bao dung, đoạn đầu đời cô bé khung lại trong xóm nhỏ êm đềm nép mình bên dòng sông uốn khúc mà ngoại thường hay nhắc… Vậy mà đến khi ngoại mất Phiến lại không có ở nhà, không tận tay vuốt mắt cho người già yên lòng về nơi chín suối. Ngoại chết không nhắm mắt.
Phiến ngồi nhổ mấy bụi cỏ mọc trên nấm mồ của ngoại. Mộ ngoại nằm giữa đồng cỏ xanh, dưới mặt đất, trên bầu trời biêng biếc. Phiến tựa lưng vào mộ ngoại, chiếc đầm trắng xõa dài trên mặt đất quê hương, tóc Phiến xõa dài trên cỏ. Nước mắt Phiến chảy ra. Khóc. Ngày nhỏ Phiến vẫn hay khóc. Ngoại rầy Phiến cũng khóc. Nhớ mẹ Phiến cũng khóc. Hoặc chiều ngồi buồn buồn nhìn cánh đồng đìu hiu trong cơn mưa lất phất Phiến cũng khóc. Mà nước mắt hồi ấy trong trẻo vô ngần. Còn bây giờ… Phiến thở dài, cảm giác dựa lưng vào mộ ngoại hệt như dựa vào chính cơ thể gầy còm của ngoại. Lúc trước ngoại thường mặc áo bà ba, chiếc áo rách vai, ngoại vá lại bằng mảnh vải caro cũ kĩ. Giá như ngoại còn ở trên đời. Giá như ngoại đợi Phiến về với ngoại.
Phiến úp mặt lên ngôi mộ. Trời đất vô thanh. Phiến nức nở:
– Ngoại ơi! Ngoại! Con đã về với ngoại rồi đây. Con đang nằm cạnh ngoại đây. Mới đó đã gần mười năm. Mười năm con phiêu bạt. Mười năm con lầm lạc và đớn đau. Ngoại ơi, cho con theo ngoại với, đời khổ quá! Ngoại ơi…
Nước mắt đắng nghét. Đáp lại lời Phiến là tiếng gió và nhịp tim khẽ đập trong lồng ngực vẫn còn âm ĩ đau. Bác sĩ nói Phiến cần tịnh dưỡng nhiều hơn, mảnh thủy tinh trong ngực bác sĩ đã rút ra, nhưng vết thương vẫn chưa lành hẳn và thi thoảng vẫn còn rỉ máu.
Đời ô nhục. Phiến đứng lên từ nỗi đau và rồi tự tìm đến nỗi đau. Trong đêm, nghĩ mình chẳng còn gì luyến tiếc ở trên đời. Ngoại mất. Mẹ nơi đâu cũng không biết không hay. Người gieo lên Phiến hai tiếng: “Con điếm”. Phiến nhục nhã ê chề. Không kìm nén được lòng mình, Phiến cầm mảnh thủy tinh cắm phập vào lồng ngực để được đi theo ngoại. Trong lúc máu chảy ra đỏ hoét nền nhà, Phiến chợt nghĩ: “Mình chết đã đành, nhưng còn đứa nhỏ, nó có tội tình gì đâu?”. Nghĩ không thể mẹ làm con chịu, Phiến bụm tay kín vết thương ngăn máu chảy lao ra đường gọi taxi. Tài xế nhìn Phiến tiều tụy và máu me, ái ngại. Nhưng lương tâm không cho phép anh bỏ mặt, anh đưa Phiến tới bệnh viện, bác sĩ kịp thời cứu lấy hai mẹ con.
Đứa nhỏ là hi vọng duy nhất giữ Phiến trên đời.
*
Ngày ngoại mất cũng là ngày Phiến nằm trong bệnh viện. Lúc ấy, Phiến tỉnh dậy không biết chuyện gì vừa xảy ra với mình. Xung quanh là bốn bức tường trắng, mùi thuốc men, mùi bệnh hoạn, chết chóc. Khuôn mặt Phiến đau nhức dữ dội. Phiến đưa tay lên, sờ, bác sĩ đã băng kín khuôn mặt Phiến bằng một lớp băng gạt, chỉ để lộ hai con mặt.
Đêm hôm trước, một người đàn bà đứng trước cửa phòng trọ đợi Phiến về. Sau khi thóa mạ Phiến là “con giật chồng”, “con đĩ”,… người đàn bà vung tay hất ca nước gì đó vào mặt Phiến. Nóng lắm. Rát lắm. Nước thấm vào da thịt Phiến, ăn mòn khuôn mặt Phiến. Phiến ôm mặt gào thét, người đàn bà cười khanh khách rồi bỏ lên xe ô tô, đi mất biệt.
Bác sĩ nói chỉ có phẫu thuật thẩm mĩ mới trả lại được khuôn mặt của Phiến, nhưng không giống Phiến của ngày xưa. Phiến đồng ý. Phiến cũng không cần khuôn mặt mình phải y hệt ngày xưa. Trừ tuổi thơ êm đẹp thì thanh xuân của Phiến chỉ toàn những ngày dơ bẩn, nhơ nhuốt, nay nằm trong vòng tay người này, mai ân ái với người kia. Phiến đánh mất chính mình. Ngoại nói đúng, đường đời cũng như dòng sông, có bao giờ nó thẳng một đường đâu?! Đời rẽ ngoặt Phiến vào con đường sai trái. Trên con đường ấy, Phiến nhớ có lần Phiến trông thấy ai lướt qua thoáng giống mẹ ruột của Phiến. Phiến không lầm. Không thể lầm. Nhưng Phiến không quay lại gọi mẹ mà giận sôi nước mắt. Người đàn bà ấy trong bộ váy kiêu sa, khuôn mặt trang điểm rất sắc đang chăn dắt đám con gái nhà quê như Phiến cho bọn đại gia nằm phè phởn trong kia, chỉ cần chìa tiền là mua được một đêm khoái lạc…
Hình bóng mẹ phai nhòa trong tâm trí Phiến.
Phiến nhớ ngày Phiến rời quê, ngoại dặn: “Chừng nào tìm được mẹ mày, kêu mẹ mày về đây thăm ngoại, nghen con. Ngoại nhớ nó lắm! Đêm ngoại nằm mơ thấy nó hoài”. Phiến gật đầu. Nhưng rồi Phiến không dám bước đến bên cạnh mẹ khi đã gặp. Mà người đàn bà ấy cũng không nhận ra Phiến trong một hình hài khác. Đời Phiến trượt dài trên con đường tăm tối cho đến khi Phiến phát hiện mình mang giọt máu của “người dưng” trong người. Cho đến khi bản năng làm mẹ trỗi dậy, cứu rỗi cuộc đời Phiến.
*
Phiến về quê ngoại, nơi Phiến gắn bó những năm tháng tuổi thơ ngọt bùi. Bầu trời xóm ngoại vẫn xanh, dòng sông vẫn chảy và uốn khúc quanh co như cuộc đời. Chỉ có Phiến là không thể trở lại như xưa. Chỉ có ngoại là không thể sống dậy mà ôm ấp Phiến, yêu thương và rộng lượng thứ tha cho những lầm lạc của Phiến trong đời…
Sông có bao giờ thẳng?
Phiến nằm cạnh ngôi mộ của ngoại. Nắng quê hương dịu mát, gió quê hương thanh thoát vô ngần. Phiến đặt tay lên bụng mình, nhắm mắt mơ màng nghĩ về ngoại, về dĩ vãng, về những ngày sắp tới.
Chưa bao giờ lòng Phiến thanh thản như lúc này. Sau tất cả, quê nhà vẫn là chốn thương yêu, cưu mang và che chở chúng ta.
– Ngoại ơi! Ngoại thứ tha cho con, đất quê thứ tha cho con. Phải không ngoại? – Phiến bần thần.
Đôi mắt Phiến từ từ hé ra, trước mặt Phiến là bóng hình của mẹ…
TRĂNG DỐI
1.
Tôi dẫn đứa nhỏ qua triền đê. Đường dài hun hút. Phía trước, con đường xẻ ngang cánh đồng cỏ lau, cong cong, lẩn khuất, tù mù. Tháng nắng, cỏ lau nở trắng muốt cánh đồng.
Quãng đường từ cái làng nhỏ xa xăm của tôi đến cánh đồng cỏ lau thênh thang mà có khi tôi lại ngỡ nó dài như cuộc đời. Trên chặng đường ấy, ba, bốn lần út Quyên hỏi tôi:
– Má ơi, mình đi đâu vậy, hả má?
Tôi nhìn con bé, tay tôi xoa đầu nó, tự dưng tôi thấy thương út Quyên vô cùng. Còn gì buồn hơn khi mình cứ mải miết đi mà chẳng biết đích đến là đâu. Chỉ nhớ rằng đi là chạy trốn, rời bỏ. Nắng chiều buông xuống đồng lau, hơi lạnh, tôi kéo út Quyên nép vào người mình.
– Đời rộng quá út Quyên ha.
Con bé nhìn tôi, những dấu hỏi lửng lơ trong đáy mắt. Phải rồi, út Quyên của tôi còn quá nhỏ để hiểu cuộc đời rộng lớn nhường nào, trăm chiều nghịch lí ra sao. Con bé gật đầu. Thế giới của út Quyên thu lại nơi làng xa thanh vắng, con đường, bờ đất, chiều hoàng hôn rơi xuống cánh đồng và những đêm hiền lành có bóng trăng tuổi thơ tròn đầy, lơ lửng.
Cái thế giới của út hồn nhiên, trong trẻo và thánh thiện. Tuyệt nhiên không có những nỗi buồn, những bí mật hay u uất trong cuộc đời của út.
“Đi thôi con”, tôi nói với út Quyên như vậy rồi thản nhiên đội nón lá bước ra khỏi nhà. Tôi nắm tay con bé. Mắt út nhìn dáo dác. Cô bé đang chơi đồ hàng với đám con nít ngoài sân bỗng dưng bị tôi kéo tay tách khỏi cuộc chơi vui vẻ, nó mếu máo. Tôi dỗ dành: “Đi với má”. Con bé nhìn tôi, chắc nó thấy má của nó lạ lắm. Lạ lùng và bất ngờ như cái quyết định ra đi mà chính tôi cũng chẳng biết hai má con sẽ đi về đâu.
“Đôi khi mình phải chấp nhận ra đi. Khi cuộc đời không thể nào dung thứ cho mình được nữa” – Má tôi dặn vậy.
Trong cái giỏ nhỏ tôi mang theo chẳng có gì ngoài mấy bộ đồ của út Quyên, dăm quả trứng luộc đã nguội để út Quyên ăn lót dạ trên đường. Vậy là đi. Cuộc ra đi nhẹ tênh, mặc đường dài thăm thẳm. Không giống như cái lần cả nhà sốt sắng sang làng bên thăm mộ ngoại út Quyên. Lần ấy vui hơn.
Đường đi quanh co, mặt đường mấp mô khúc khuỷu. Mấy lần tôi vấp chân vào mô đất đau điếng. Trên đồng lau không một ngôi nhà, một bóng người nào khác trừ hai má con tôi, chỉ có tiếng chim ríu rít xa xa, bóng chiều đang dần buông xuống.
Út Quyên bất lực trước quyết định của tôi, đi thêm một quãng nữa, con bé dừng lại giảy nãy:
– Trời ơi, mình về với ba đi má, về làng đi má, mình đã đi xa quá rồi!
– Về làm gì nữa hả út? Về làng… má chịu không nổi.
– Sao vậy má? Chẳng phải má con mình đã sống ở cái làng ấy từ trước đến giờ, ai cũng quen mặt, ai cũng thương mình hết sao? Má có tội tình gì? Con có tội tình gì… mà phải trốn, hả má?
Những câu hỏi của út Quyên ập vào tôi khiến tôi sững sờ, câm lặng. Tôi im lặng không phải tôi không trả lời được câu hỏi của út Quyên, mà bởi con bé còn quá nhỏ, quá hồn nhiên để biết được những góc khuất đen đúa màu của tội lỗi và nhơ nhuốc ẩn sau những vui vẻ nói cười. Chừng ấy năm út Quyên tồn tại trên đời, tôi cưu mang, che chở cho út Quyên để những xấu xa dơ bẩn không vấy vào tâm hồn ngây thơ của con bé. Người ta đem từng đường nét trên khuôn mặt đứa nhỏ ra mà săm soi để tìm điểm giống nhau hiếm hoi giữa hai cha con, tôi bịt tai út Quyên lại. Tôi thắt chặt niềm đau trong lòng thản nhiên xua đuổi người đàn ông vẫn thường neo ghe dưới bến sông gần nhà tôi, mắt nhìn lên, đau đáu. Hững hờ như kẻ lạ người xa.
Út Quyên cứ trong trẻo sống trọn những ngày thơ ấu. Tôi (cũng như bao người đàn bà khác) lấy thiên chức người mẹ bảo vệ đứa con của mình. Miễn út Quyên bình an, còn tôi ra sao cũng được.
Và rồi chúng tôi ra đi. Đi mải miết. Út Quyên than đói, chúng tôi ngồi xuống một mô đất cạnh vạt cỏ lau phơ phất có mấy bông hoa trắng muốt lòa xòa vào mặt út Quyên. Tôi lấy quả trứng trong giỏ, bóc vỏ đưa cho út Quyên. Con bé cầm quả trứng đưa lên miệng, nhai nhóp nhép. Gió đồng vi vu. Con bé vừa ăn vừa vén sợi tóc lên vành tai, mắt nhìn về phía xa. Đường còn dài. Có chút gì chênh vênh hiện hình trong ánh mắt non tơ và cái nhìn lạ lùng của con bé…
2.
Chúng tôi không đi nữa. “Thôi mình dừng lại út Quyên ha, má cũng mỏi chân rồi!”, tôi nói với út Quyên như vậy. Tôi dặn út Quyên ngồi trên đồng cỏ, dưới gốc cây bã đậu, còn tôi chạy đi xung quanh tìm chút bóng dáng của sự sống.
Bốn bề lau lách. Không một ngôi nhà. Không một bóng người. Tôi gọi đến khản cổ vẫn không nghe ai hồi đáp. Đất hoang, tôi nghĩ bụng. Đất sẽ cưu mang mẹ con tôi, chúng tôi sẽ trụ chân lại nơi đây sau hành trình mệt nhoài mang tên chạy trốn.
Tôi hát ru út Quyên ngủ trong ngôi nhà tranh nhỏ xíu giữa cánh đồng, cạnh cây bã đậu. Vẫn cái bài quen tôi hát ru út Quyên hồi út còn bé xíu. Út nói với tôi:
– Con lớn rồi chứ còn nhỏ em gì đâu mà má hát hoài, cực má!
Tôi bẹo má út, cười cười:
– Má thích hát vậy mà. Út Quyên nè, con có nhớ nhà không?
Con bé lại trầm ngâm nghĩ ngợi, một lúc thì buột miệng:
– Nhớ! Con nhớ lắm! Con nhớ căn nhà nhỏ cuối làng! Con nhớ ba! Nhớ em Lê! Nhớ út Vạc!… Bao giờ mình về nhà hả má?
Nghe út Quyên hỏi bằng giọng ngây ngô, lòng tôi đắng nghét. Tôi lần tay tính ngày má con tôi xa quê: ba, bốn mùa trăng, mấy mùa sương giăng khắp lối.
Tôi gật gù:
– Ừ, má không biết nữa! Chắc là lâu lắm.
Con bé mím môi định khóc, nhưng rồi không biết kìm nén bằng cách nào mà út Quyên không khóc. Nó mạnh mẽ giống Luân. Nó ngoảnh mặt qua hàng song nhìn về phía đồng trưa gió xào xạc gió.
Tôi thường mơ thấy Luân trong những giấc mơ khuya. Luân đi tìm tôi trên cánh đồng cỏ lau. Tôi nom thấy Luân, út Quyên cũng thấy ba đang loay hoay trong những khóm lau trổ bông cao ngang ngực. Con bé nhìn tôi rồi mở miệng định gọi Luân, nhưng tôi ngăn: “Suỵt, út Quyên ngoan ngoãn im lặng nào”. Con bé xỉu xìu xiu, buồn như trời tháng sáu. Luân cứ tìm mẹ con tôi, còn tôi cứ dẫn út Quyên vạch lau chạy trốn để Luân không trông thấy. Chúng tôi chơi trò chạy trốn trên cánh đồng. Út Quyên miễn cưỡng chạy theo tôi, chốc chốc nó lại ngoái nhìn về phía Luân. Nó không nỡ. Còn tôi cứ kéo tay nó luồn đi thật nhanh, thật xa, về ngồi trong mái nhà tranh dưới cây bã đậu. Tôi thở hổn hển, út Quyên nước mắt ròng ròng. Nó hỏi tôi:
– Sao mình cứ trốn ba mãi vậy má?
– Lớn lên con sẽ hiểu. Giờ thì má không giải thích. Nhất định không!
Con bé giận dỗi bỏ vào trong buồng nằm quay mặt vào vách, kéo chăn trùm bít rịt, khóc thút thít.
Ở trên đồng, có rau ăn rau, có cá ăn cá. Rau thì tôi cắp rổ cùng út Quyên đi hái ở rìa đồng cỏ lau. Tôi bắt cào cào móc mồi, dẫn út Quyên ra cái ao nước giữa đồng câu cá. Út Quyên thường nhắc chuyện hồi đó Luân dẫn út Quyên đi câu cá, bao giờ nó cũng ngồi trên cổ Luân, còn Luân gồng mình giữ cho cần câu đừng nhúc nhích để dụ cá cắn câu. “Hồi đó vui thiệt, má ha”, út Quyên nói hoài cái câu đó. Hình như nó cứ mãi sống về những ngày xưa yêu dấu. Thân xác nó ở trên đồng cỏ lau, trong ngôi nhà tranh xập xệp đủ để che nắng khỏi hắt, che mưa khỏi tạt vào; mà tâm hồn nó cứ luẩn quẩn ở làng, bên Luân, trong căn nhà gỗ phía trước có giàn hoa thiên lí lửng lơ mấy giọt vàng ửng mỗi độ sương buông. Luân trồng dây thiên lí này từ hồi mới cưới tôi về, rồi chăm bón, rồi cắm giàn để thiên lí buông tua bò khắp, lá xanh, bông xanh xanh ngà vàng. Làng thường đến nhà tôi xin hái hoa thiên lí về làm món. Luân thích ăn canh thiên lí tôi nấu. Hoa thiên lí trôi lững lờ trong tô nước màu xanh ngọc bích, ngọt tận ruột gan, Luân húp đến cạn cả nước. Tự dưng tôi nhớ cái giàn thiên lí đó quá! Út Quyên cũng nhớ. Mấy lần nó đòi tôi nấu canh thiên lí cho nó ăn. Mà giữa đồng cỏ hoang vu heo hút này biết tìm đâu ra mấy bông thiên lí thánh thiện ấy. Tôi bùi ngùi: “Bao giờ về làng, má nấu thiên lí cho con ăn”.
Nói vậy chứ biết bao giờ má con tôi mới trở lại làng xưa.
Giấc mộng vụt tan. Luân biến mất khỏi tâm trí tôi, để lại trước mắt tôi là khoảng trống lu mờ, tối tăm, tội lỗi.
Con bé hay ngồi trước nhà lấy than đen quệt lên tấm ván khuôn mặt của ai đó, giống Luân. Tôi nhận ra Luân bởi con bé đã tỉ mỉ vẽ một vết sẹo bé xíu bên má trái – đó là lần Luân với tay sửa lại cái máng xối trên mái nhà, cái máng tôn đứt dây rơi xuống cắt vào mặt Luân một vết sẹo, ứa máu. Vết sẹo không to, nhưng nó không bao giờ mờ theo thời gian. Dù vậy út Quyên vẫn yêu cái vết sẹo ấy, con bé thường hôn lên má trái của Luân, lên trán Luân.
Tôi ở nhà nấu cơm, Luân cõng út Quyên ra bờ sông hái hoa cỏ may đầy nắm tay. Con bé rất thích hoa cỏ may, loài hoa nhẹ nhàng, mong manh trong gió. Hái hoa chán, Luân cõng con ngồi trên lưng, còn anh lội ngang qua con mương nhỏ tiện tay hái ít rau muống để chiều tôi nấu canh chua cho hai cha con ăn. Mùa nước cạn, rau muống mọc hoang lá xanh rờn, đôi luống trổ bông trắng tím. Trên những triền sông, bờ cỏ, đồng làng có bóng dáng hai cha con. Cha cõng con, cha ôm con, cha dìu dắt, che chở con – hình ảnh ấy đẹp và trong sáng như cổ tích yên bình, đẹp lắm! Luân thương út Quyên hơn cả một thiên thần. Trời ơi, giá mà Luân ghét út Quyên, hoặc ghẻ lạnh, hoặc thương út Quyên ít hơn thì tôi thấy lòng mình nhẹ bẫng. Nhưng không, con bé với Luân như hình với bóng. Hình như là tôi điên! Đúng, tôi đang điên. Có người mẹ nào lại muốn con mình bị cha nó ghét bỏ, lạnh nhạt. Tôi hóa điên. Lòng tôi hỗn độn mỗi khi nhìn Luân thương út Quyên và hy sinh tất cả vì con bé. Trái tim Luân ấm áp, đôi mắt Luân hiền lành, lương thiện. Nhiều lúc tôi cứ ngỡ tôi sinh út Quyên ra là để dành riêng cho Luân. Con bé mến Luân hơn cả tôi. Luân đi làm ở lò gạch ở làng bên, trưa trưa con bé bảo tôi dẫn nó đi qua chỗ làm gặp Luân, lau mồ hôi, đưa Luân cốc nước mát rồi đội nón đi về. Chiều Luân về, mình mẩy lấm lem bùn đất vẫn không quên hôn lên gò má ửng hồng của con bé, thủ thỉ hỏi chuyện, cười hiền từ. Và bao giờ cũng vậy, Luân về cùng quà bánh trên tay để út Quyên được vui. Con nít mà, nhìn quà bánh là sáng trưng đôi mắt. Nhưng út Quyên thương Luân không phải vì quà bánh mà bởi vì Luân là ba của nó. Người ba chân chất, nhân hậu, bao dung. Người ba lúc nào cũng nghĩ đến nó, dạy cho nó những bài học làm người mà có lẽ suốt cuộc đời nó chẳng bao giờ quên…
3.
Tôi không về làng. Tôi đi thẳng ra bờ sông. Đêm trăng nhờn nhợt.
Qúy nói, anh chờ tôi ở đó, đúng đêm khuya, khi làng đã ngủ say. Tôi ậm ừ.
Tôi nói dối Luân tôi về nhà má ở làng bên kia, ngủ lại một đêm, sáng mai khi mặt trời lên khỏi ngọn cây tôi mới trở về nhà. Nhưng tôi không về nhà má. Tôi cũng không rời khỏi làng, tôi quẩn quanh ở đó, trên cánh đồng, nhởn nhơ trên triền đê thi thoảng ngẩng mặt đăm đăm nhìn một ngôi sao biếc lửng lơ trên bầu trời. Ngày bé, tôi từng ước mình là ngôi sao để được chu du giữa mây trời, tự do nhìn ngắm thế gian. Rồi tôi lớn lên, mọi thứ thu nhỏ lại trong cái làng với những con người hiền lành sống bằng nghề làm gốm sứ. Bảy, tám tuổi tay tôi đã lấm lem đất sét, tóc tôi sực nức mùi gốm nung trong lò tỏa khói miên man. Tôi lấy Luân, làng cử mấy cô gái chưa chồng tiễn tôi về làng bên này, tôi mặc áo dài đỏ, cầm hoa, đi bên Luân. Khoảnh khắc ấy đẹp và thiêng liêng nhất mà suốt đời tôi cũng không quên đi. Tôi sống với Luân, người đàn ông nghèo cực mà chí nghĩa chí tình, anh yêu thương tôi, chăm lo cho tôi. Đôi bàn tay rộng lượng. Đôi bàn tay dung thứ. Trong một lúc tôi quên đi giấc mơ được làm ngôi sao bay đi khắp nơi như ngày xa xưa ngô dại.
Ánh trăng chảy dài trên mái tóc tôi, trên cơ thể trần trụi của tôi.
Mắt tôi nhắm nghiềm, mộng mị. Qúy đang lướt đi trên da thịt tôi bằng những mềm mại, yêu chiều và chiếm đoạt. Tôi nằm đó, trên cỏ. Tóc tôi xõa dài, trôi dập dềnh theo chiều nước chảy. Lạnh cả gáy. Nhục nhã hơn là thích thú. Đau đớn hơn êm ái, vuốt ve. Qúy không giống Luân. Mạnh bạo và vồ vập hơn. Tôi đau rát. Đau từ ngoài vào trong, từ thể xác đến tâm hồn loang lổ những mảng đen ghê rợn. Hổn hển. Nhịp nhàng. Tôi thấy mình trôi đi, trôi đi. Sương đêm thấm vào da thịt tôi.
Kể từ giây phút đó, tôi là kẻ tội đồ. Một con đàn bàn lăn loàn, nhơ nhuốt. Qúy thương tôi từ thuở tôi còn là gái làng gốm. Má tôi bảo Qúy không tốt tính, lấy Qúy sau này tôi sẽ khổ. Mà cũng vì tôi không có cảm giác đặc biệt mỗi khi ở bên anh. Tôi đi lấy chồng, Qúy giận tôi, đêm sau khi tôi rời làng gốm, Qúy cùng bọn người bịt mặt kín mít kéo vào đập nát kho gốm sứ nhà tôi để… “trả thù tình”. Má tôi biết thủ phạm là Qúy, tôi cũng đoán được, nhưng chúng tôi im lặng. “Chắc tại nó thương mày quá”, má tôi nói vậy.
Và rồi tôi đã tìm đến Qúy sau khi ăn chung ở chạ với Luân. Không phải vì tình yêu, càng không phải vì bản năng nhục dục. Mà vì Luân. Người đàn ông ấy vẫn thường mơ về ngôi nhà với những đứa trẻ kháu khỉnh, tinh nghịch, nói cười. “Con gái sẽ giống em, còn con trai chắc sẽ giống anh, mạnh mẽ và chăm chỉ”, Luân mơ vậy. Chúng tôi đã nỗ lực, nhưng mãi chúng tôi vẫn không thể có con. Ai đó độc mồm mỉa mai đời cha ông chúng tôi ăn ở mất đức nên mới thành ra như vậy. Trời ơi, chúng tôi có tội tình gì đâu? Chúng tôi cũng không biết cha ông mình đời trước kiếp trước ăn ở thế nào mà họ lại nhẫn tâm gieo tiếng ác. Luân thất vọng, còn tôi phờ phạc hẳn đi. Bẵng một thời gian Luân không nhắc đến chuyện sinh con, đẻ cái. “Không có con cũng không sao, miễn chúng ta thương nhau”, Luân nói vậy với tôi. Nhưng tôi biết anh buồn và bất lực.
Tìm Qúy. Với tôi, hành động đó là nỗi nhục nhã nhất đời.
Tôi như miếng mồi ngon, còn Qúy là con hổ đang vồ mồi. Qúy chiếm đoạt tôi dưới trăng. Ôi, cái vầng trăng hiền lành vẫn chăm chỉ soi bóng xuống làng tôi mỗi đêm hè hay khi mùa vụ, bây giờ trở nên dối trá và dơ bẩn quá. Trăng có mùi tanh tưởi. Trăng có màu nhạt nhòa, héo úa. Trăng rủ xuống đời tôi những tủi buồn, chứng nhân của đêm hoan lạc sai trái. Tôi sợ trăng từ đó.
Đêm đó, hồn tôi lởn vởn trên sông, trên cỏ. Hồn tôi trơ trơ. Tôi không còn là chính mình.
Sáng hôm sau, tôi trở lại làng. Khi mặt trời đã lên cao. Luân đợi tôi dưới giàn thiên lí. Độ này thiên lí trổ hoa, những cái hoa nhỏ xíu, li ti, lung linh trong nắng sớm. Căn nhà nhỏ có dáng hình của Luân khiến lòng tôi nhẹ hẵng đi. Nhưng vết nhơ đêm qua vẫn còn trên cơ thể. Tôi tự mình gột rửa. Tôi kì cọ dưới ao sen, hi vọng nước ao trong veo sẽ cuốn đi tất cả mọi thứ, trả lại tôi – người đàn bà trong sạch của Luân, người trước kia luôn đặt nghĩa phu thê, thủy chung son sắt lên đầu.
“Luân ơi, em không còn xứng đáng với tình yêu của anh. Giá mà em đủ can đảm để nói ra với anh sự thật út Quyên không phải là con ruột của anh mà là con của một người đàn ông khác”. Tôi nghĩ vậy. Nhiều lần tôi định nói với Luân, nhưng can đảm là thứ mà tôi luôn thiếu thốn. Sự thật ngủ yên trong đêm trăng dối trá hôm nào.
4.
Luân đếm từng đêm trăng đợi ngày đứa nhỏ chào đời. Nó cất tiếng khóc trong đêm khuya, mụ vườn mát tay lấy nhau rốn của đứa nhỏ đưa cho Luân, Luân mang cái nhau rốn chôn dưới giàn thiên lí, trong lòng đất quê. Mảnh đất này sẽ che chở cho út Quyên. Để lớn lên út Quyên sẽ không rời quê mà đi, không bội bạc vong tình, quê nhà bình yên như cánh võng ru hời út Quyên qua từng năm tháng.
Út Quyên ra đời, nhẹ hẫng. Tôi sinh con bé trong thời khắc ám ảnh nhất của cuộc đời: đêm trăng. Út Quyên lớn lên, qua từng mùa trăng con bé thay da đổi thịt. Bóng trăng tuổi thơ lơ lửng trên đường làng, trên vòm trời mênh mông, ánh sáng trăng thanh rọi xuống mái nhà khiến làng tôi trong tâm trí út Quyên là làng quê cổ tích. Nơi ấy bình yên. Nơi ấy có một gia đình.
Tôi thường giật mình trong đêm. Giấc mơ vụt tan nhưng nước mắt vẫn còn đầm đìa trên má. Ai đó vừa định cướp mất út Quyên của tôi. Tôi đuổi theo, vấp ngã, lăn trườn trên cỏ, chân tay tôi trầy trụa túa máu. Tôi dằng co với người đàn ông lạ bịt mặt bằng tấm vải màu đen để giành lại út Quyên. Vị thần nào đó đã ban cho tôi sức mạnh để tôi chiến thắng tên cướp côn đồ đầy dã tâm. Tôi ẳm con bé quay ngược về làng. Nhưng tôi không thấy Luân, tôi giận đến sôi nước mắt. Trong khoảnh khắc ấy Luân đang ở đâu? Tôi giật mình tỉnh giấc. Út Quyên vẫn nằm bên cạnh, khuôn mặt thiên thần. Con bé đang ngủ say, đầu kê lên cánh tay của Luân. Luân cũng ngủ. Bỗng dưng tôi thấy mình vô lí quá, cớ gì tôi lại giận Luân trong giấc mơ? Luân với đứa nhỏ có máu mủ ruột gà gì đâu?! Tôi bùi ngùi, lòng nhói. Những giấc mơ như thế vẫn thường trở đi trở lại trong quãng đời mù mờ như mây chiều khói bếp của tôi. Chưa bao giờ tôi thấy mình tĩnh an từ khi út Quyên ra đời.
Luân không biết. Út Quyên không biết. Không ai biết được. Bí mật vẫn là bí mật. Chỉ có ánh trăng là thấu rõ, tận tường.
Mùa đi ngang qua làng. Lúa vừa gặt xong, mấy đống rơm vàng xuất hiện trên đường đê và những thảm lúa hột trải ra phơi trên cỏ cứ ánh lên một sắc vàng lóng lánh.
Buổi chiều, tôi nấu cơm, kho cá, để hết trong lồng bàn. Má con tôi ăn qua quýt. Luân đi làm ở lò gạch vẫn chưa về. Tôi dắt út Quyên ra giàn hoa thiên lí ngồi đợi. Bóng chiều đổ dần trên đường làng làm phản quang những mảng sắc xanh, đỏ, hồng, tím… trộn lẫn.
Đêm trăng, khi Luân đã ngủ say, tôi giục út Quyên thức dậy rời khỏi mái nhà bình yên. Con bé vừa bước đi vừa dụi mắt. Nó vẫn còn say ngủ. Con bé mở miệng hỏi tôi:
– Khuya lơ khuya lắc má dẫn con đi đâu vậy má?
– Suỵt – Tôi ra hiệu – Út Quyên ngoan, im lặng nào.
Tôi kéo tay út đi ra khỏi nhà. Sương ướt đầm trên giàn thiên lí.
– Đợi con vào gọi ba đi cùng.
– Không. Út Quyên, má xin con. Đi với má!
Con bé ngẩn ngơ nhưng vẫn đi theo tôi. Chắc nó nghĩ tôi dắt nó đi đâu đó, sang nhà bà ngoại, hay đi chợ xa. Nó không thắc mắc. Chúng tôi bước đi trên đường làng. Con đường dẫn ra bờ sông, bãi cỏ. Đi mãi. Út Quyên mỏi chân, tôi ngồi xuống để út Quyên trèo lên lưng tôi cõng con bé đi. Nó ngủ gật trên lưng tôi. Bờ lưng êm ái bờ lưng thanh bình. Bờ lưng của người đàn bà gồng gánh những tủi nhục, gian lao, để chở che cho nó được bình yên.
Chúng tôi đã rời làng một quãng rất xa. Trước mắt tôi, đồng lau chập chờn ẩn hiện trong sương sớm. Đường về làng lòa nhòa trong tâm trí tôi. Ở đây tôi vẫn thường nhớ đến ngôi làng nhỏ của mình. Ngôi làng mùa xuân hoa mai, mùa hè phượng đỏ, mùa thu thơm thoang thoảng hương bưởi chín và và mỗi độ đông về từng chùm sầu đâu lơ lửng trên cao rồi theo gió non nhẹ nhàng rơi xuống mái nhà lấm tấm. Đồng cỏ lau đâu giống làng. Ở đây thanh vắng, bốn bề chỉ toàn lau lách um tùm, đôi khi có cánh chim sà xuống đậu trước sân nhà mổ vu vơ mấy hạt thóc vun vãi rồi bay đi. Và đêm xuống, đồng lau lạnh ngắt, tôi thèm vòng tay ấm áp của Luân. Nhớ Luân, tôi chỉ tìm anh trong giấc mơ của riêng mình. Trở về với Luân có lẽ là điều xa xỉ đối với tôi.
5.
Ở trên đồng cỏ lau, thời gian trôi qua khẽ khàng, dịu dàng và hiền từ đến kì diệu. Tôi thấy mình với út Quyên như hai con người ở thời đại nào đó xa xôi lắm, đứng nhìn bước đi của thời gian.
Một sáng thức dậy, út Quyên bỗng nghe có tiếng xình xịch đâu đâu. Mặt đất rung chuyển. Nó hốt hoảng chạy ra sân nhà đứng nhìn về phía âm thanh dữ dội ấy. Máy xới, máy cày, máy xúc… đang hoành hành trên mảnh đất bao nhiêu năm bị bỏ hoang, cỏ lau mọc lên um tùm xao xác. Con bé chạy vào trong nhà, giục tôi:
– Má ơi má, ra coi kìa, người ta đang làm gì kia kìa!
Tôi chạy ra sân nhìn về phía cánh tay của út, giật mình:
– Người ta đang vỡ đất. Đồng cỏ sẽ không còn bị bỏ hoang nữa. Rồi mai này ở đây sẽ mọc lên những ngôi nhà, xí nghiệp, xưởng máy…
– Rồi mình sống ở đâu? Hả má?
Câu hỏi của út Quyên khiến tôi chùng lại hẳn đi. Sống ở đâu? Biết sống ở đâu bây giờ? Tôi tự hỏi.
– Hay là mình trở lại làng đi má?! – Út Quyên nói.
– Không! Má không về đó đâu. Út Quyên, con không phải là con của ba Luân. Không phải!…
Nói xong, tôi bàng hoàng trước câu nói của mình. Trời ơi, tôi đã nói ra cái bí mật bao nhiêu năm tôi chôn giấu, với một đứa trẻ. Trời ơi, tôi đang làm tổn thương đứa con mà tôi hết mực chăm bẳm, bảo vệ ư? Tôi có còn là tôi nữa hay không?!
Nhưng út Quyên không bất ngờ trước câu nói của tôi. Càng không giãy nảy, khóc ròng hay trách cứ tôi như tôi hằng tưởng tượng.
– Con biết lâu rồi má!
– Trời ơi, sao… sao con biết vậy, út Quyên?
– Ba Luân nói con nghe – Con bé đáp gọn.
Trái tim tôi tưởng như rơi ra khỏi lồng ngực, văng xuống đất và tan vào trong đất. Trong một lúc tôi hoàn hồn và hỏi con bé:
– Ba Luân nói với con khi nào?
– Hồi con còn nhỏ xíu.
Lòng tôi vỡ ra thành trăm ngàn mảnh nhỏ. Những dồn nén bấy lâu vỡ òa trong tôi, khiến tôi bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Út Quyên vẫn bình tĩnh, thản nhiên. Trông con bé y hệt như Luân:
– Út Quyên. Sao chừng ấy năm con không nói với má một lời?
– Vì má là má của con. Vì con cần má, và con cần có ba Luân. Mình về với ba đi má!
“Luân ơi, em đâu xứng đáng nhận được tình yêu thương và sự bao dung từ anh như thế! Anh càng yêu thương, em càng nhục nhã trăm lần”
Chúng tôi quyết định về lại làng xưa. Về để đối diện với những điều bình dị, chân phương nhất. Hóa ra, bí mật mà tôi giấu giếm đã được khai quật từ lâu. Nhưng nó lại một lần nữa được chôn chặt bằng tấm lòng vị tha, bao dung và thấu hiểu của Luân.
Út Quyên đi bên tôi. Trời lơ thơ gió. Tôi nhận ra làng mình vẫn hiền lành và dung dị như xưa. Nắng đã lên cao, con đường làng rợp bóng sầu đâu cuối mùa trổ bông, chim ca ríu rít. Những mái nhà nằm im nhìn ngắm vòm trời yên ả quê hương.
– Quê mình đẹp quá con ha.
Út Quyên gật đầu. Con bé ngửa cổ lên trời hít một hơi thật sâu vào trong lồng ngực. Cảm nhận dư vị quê nhà bấy lâu khát thèm bỗng dưng tan chảy trong người út Quyên.
– Má ơi, ba kìa… ba Luân kìa…
Út Quyên chỉ tay về phía trước. Tôi nhìn thấy Luân, anh đang đứng dưới giàn hoa thiên lí nhìn má con tôi. Mắt tôi rưng rưng.
Trong khoảnh khắc trong ngần và duy mỹ đó, tôi tự thấy bao nhiêu lầm lỗi tan biến hết, chỉ còn lại tôi, út Quyên và Luân trong không gian làng mạc sau mùa. Bình yên. Rực rỡ…
TÀU GỖ
Vẫn những cơn gió ùa ngang qua cánh đồng mùa xuân, rạ vẫn còn tươi roi rói, nước vẫn còn trong và trên cánh đồng rập rờn những cánh cò bay la bay lả.
Căn nhà nhỏ, đúng hơn là cái chòi lá nằm trên bờ đê lất phất trong buổi chiều chập choạng. Ở căn nhà đó, vào mỗi buổi chiều người đi ngang qua thường thấy có hai bà cháu ngồi chụm lại với nhau, khói vẩn lên len lỏi qua nếp nhà thơm nức trong bóng chiều.
Cơm nước xong xuôi, người bà nhắc đứa cháu bưng mâm cơm ăn dở ra sàn nước. Nước chảy róc rách. Con sóng ngoài sông từng đợt vỗ vào bờ, nó càng mạnh hơn sau khi chiếc tàu cuối cùng của ngày chạy về cái xóm nhỏ xa xôi heo hút. Sống giữa mảnh đất vắng vẻ buồn tênh này, Hoài thường ít có những niềm vui cho riêng mình. Trừ những câu chuyện cổ tích mà mỗi tối bà Hoài thường hay kể, chuyến tàu sông chính là niềm vui, niềm mong đợi lớn nhất của Hoài.
Hoài thích nhìn chuyến tàu sông chạy qua. “Nó đẹp lắm! Lớn lắm!”, Hoài nói vậy với bà sau khi bà hỏi Hoài sao chiều nào cũng đứng dưới bến đợi chuyến tàu chạy về. Bà nói Hoài gạt bà, chiếc tàu mà bà nhìn thấy mỗi chiều nhỏ xíu, ngắn ngủn, một cái ống khói bé tẹo bên trên nhả khói chậm rãi trắng đục. Ngoài trừ những người ngồi lum khum trước mũi tàu chỉ trỏ cho anh “lơ” tàu chỗ nào là bến nhà của mình để “lơ” ra hiệu cho bác lái tàu ghé đúng thì chẳng còn gì để bà ngắm. Hoài vẫn tin rằng ý niệm của mình về chiếc tàu về trong mỗi buổi hoàng hôn là đúng. Trong thâm tâm của Hoài, chiếc tàu đẹp tựa như một con cá khổng lồ có hai con mắt sáng rỡ ở trước mũi, lừ lừ tiến về xóm vắng.
Hoài mải mê ngắm chiếc tàu trong những buổi chiều. Hoài ngồi trên bãi cỏ ngóng cổ đợi chiếc tàu từ khi mặt sông còn phẳng lặng cho đến khi tiếng xình xịch của động cơ chiếc tàu quay đều, tiếng nước sục sạo, Hoài đứng dậy nhìn như nuối chửng chiếc tàu vào trong lòng. Màu gỗ thâm trầm của chiếc tàu hòa cùng màu đỏ gạch của bầu trời chiều và màu đỏ nâu của nước sông khi hoàng hôn hắt xuống. Bà không kể cho Hoài nghe nhiều về chiếc tàu đó, chỉ đưa ra cho Hoài một thông tin duy nhất là chiếc tàu đó chạy ngang qua con sông này từ hồi bà còn là thiếu nữ. Rồi bà lấy chồng, sinh con. Mẹ Hoài lớn lên, từng chiều mẹ Hoài cũng ra bờ sông ngóng chiếc tàu vì mẹ cũng yêu chiếc tàu hệt như Hoài. Bà nói Hoài giống mẹ. Bà mắng Hoài giống ai không giống, lại đi giống mẹ. Hoài tự nhủ có ai trên đời mà không giống mẹ của mình. Mà bà nói vậy cũng có lí do riêng của bà, không phải vì bà ghét mẹ hay lạnh lùng với mẹ mà vì mẹ cũng theo chuyến tàu ấy mà đi từ một buổi chiều nào mà bà không nhớ rõ. Trong trí nhớ của người già, chiếc tàu ghé lại sát bến nước, người trên tàu vẫy tay về phía mẹ, còn mẹ dịu dàng bước xuống, tóc mẹ xòa ra, bóng mẹ in theo bóng tàu và mẹ cũng đi theo con nước chiều hôm ấy. Bà từ cánh đồng chạy ra gọi mẹ nhưng mẹ không nghe, hoặc vì tiếng bà bạt theo gió bay đi mất hút. Bà không giữ được mẹ. Hoài cũng không giữ được mẹ. Nếu Hoài biết nói, có lẽ Hoài đã chạy theo gọi mẹ và níu chân mẹ, may ra mẹ còn ở lại với Hoài. Nhưng Hoài còn thơ dại, bà vẫn thường để Hoài trên chiếc võng bên mái hiên để nó tự lắc lư theo gió còn bà làm những việc lặt vặt quanh nhà như gom củi, trồng rau. Hoài ngoan lắm, ít khi Hoài khóc đòi mẹ. Bà nghĩ chắc Hoài trời sinh trời dưỡng, từ nhỏ tới lớn Hoài chưa một lần bệnh tật, có cũng chỉ là ho, sốt rề rà, bà chỉ cần bơi xuồng ra ngoài đầu sông mua ít thuốc ho thuốc cảm pha với sữa cho Hoài uống là sẽ khỏi. Người trong xóm nhỏ xa xôi nói mẹ Hoài đi theo tiếng gọi của tình yêu, người khác độc mồm hơn thì bảo mẹ Hoài đi theo trai bỏ đứa con đỏ hỏn ở nhà với người bà gầy còm lẻ bóng.
Từ đó Hoài lớn lên như chim trời, như cây cỏ. Thời gian thấm thoắt trôi. Mấy mùa xuân đi qua trên cánh đồng đêm đêm một nửa vầng trăng soi sáng. Hoài thấy mình cũng như một nửa vầng trăng, nửa còn lại mất hút, hoặc là mẹ, hoặc là chiếc tàu. Mẹ thì đi xa, còn chiếc tàu thì Hoài vẫn chưa một lần đặt chân lên cái màu gỗ nâu trầm đó. Vì thế, bên cạnh ước mơ được một lần nữa gặp lại mẹ trong cuộc đời, Hoài còn ước mơ được bước chân lên chiếc tàu có màu gỗ nâu trầm. Chiếc tàu của mộng ước.
Người ta nói với Hoài mẹ Hoài đi theo chiếc tàu ấy, thì Hoài cứ lần theo đó mà tìm. Nhưng Hoài nào biết con sông ấy chảy về đâu, cả bà cũng không biết. Bởi sông dài lắm, như cuộc đời. Bà thường ví cuộc đời mình dài dằng dặc như là sông, trôi mông lung như là nước. Sông trôi về phương nào mang theo mẹ của Hoài. Những con sông không bao giờ ngưng chảy. Những con sông chở trên mình những chiếc tàu, trong số đó có chiếc tàu gỗ màu nâu thâm trầm mà Hoài yêu. Giá mà chiếc tàu ấy dừng lại để Hoài ngắm thêm chốc lát – Hoài nghĩ vậy trong những lần ngồi ngắm tàu. Nhưng rồi ý nghĩ ấy vụt đi mất hút. Không, Hoài không thể ích kỉ như vậy bởi đời tàu sinh ra là để chạy, đời người sinh ra là để bôn ba trên những chuyến đời, ngược xuôi, nổi nênh. Tàu phải chạy để người muốn đi sẽ được ra đi, người muốn tìm sẽ có thể lận đận đi tìm, và người muốn quay về sẽ được ngồi trên một chuyến đò định mệnh nào đó mà quay về bờ cũ. Hoài nghĩ tới chuyến trở về của mẹ. Nhưng dường như điều đó là vô vọng. Bà nói: “Mẹ mày không về nữa đâu”. Không phải bà nhẫn tâm cắt đứt mầm hy vọng trong Hoài mà bà sợ Hoài thất vọng. Thà không hy vọng còn hơn là hy vọng nhiều để thất vọng thêm nhiều. Bà nói thêm: “Nếu mẹ mày về thì đã về từ lâu rồi! Mày đừng hy vọng nữa. Mày đừng trông chờ vào chiếc tàu đó nữa. Tàu không bao giờ ghé lại bến mình nữa đâu”.
Hoài vẫn chờ. Dù nắng mưa, dù sóng gió. Dù làm gì thì chiều chiều Hoài cũng ra bờ sông đợi chuyến tàu đi ngang qua phả khói trắng bảng lên sông chiều. Trên bầu trời có cánh chim nghiêng nghiêng phiêu linh trong gió thổi.
Cánh đồng mùa xuân đi qua mơn mởn, đất đai tốt lành. Trong căn nhà đó chỉ có hai bà cháu Hoài sống những tháng ngày không quá chật vật, không quá an yên, mỗi thứ chỉ dừng lại ở độ lưng chừng như một nửa vầng trăng nghiêng trong tiềm thức của Hoài. Một nửa vầng trăng là một nửa mảnh ghép. Nó đang đợi chờ một nửa mảnh ghép còn lại trùng khít để ánh sáng của nó càng trở nên tinh khôi hơn, rực rỡ trong những đêm tịch mịch.
Nhưng mẹ không trở về. Người thì nói mẹ đi tìm ba. Người thì nói mẹ đi theo một người đàn ông khác. Người ta nói mẹ tàn nhẫn bỏ đứa con mà đi chừng ấy năm vẫn chưa một lá thư, chưa một cuộc gọi dù chuyến tàu ấy vẫn xuôi ngược trên dòng sông này và Hoài vẫn đón đợi không sót một chuyến tàu nào. Bà hỏi Hoài có giận mẹ hay không, bởi mẹ đã bỏ Hoài đi ngót nghét cũng mười năm tròn. Mười năm, mười mùa xuân đi qua trên cánh đồng lộng gió. Hoài vẫn đợi. Có những buổi chiều Hoài đứt ruột tan gan vì nhớ mẹ, khi thấy cánh chim chiều bay la lả tìm về tổ ấm, Hoài ước giá mà mình cũng giống như con chim được ngủ yên trong đôi cánh ấm áp yêu thương của mẹ. Bà nói đợi chờ chỉ thêm thất vọng, bà đã đợi người bà thương suốt mấy mươi năm trời, đợi từ khi tóc xanh cho đến khi tóc bà bạc trắng mà người bà thương vẫn chưa một lần quay lại. Bà không đợi mẹ, dù bà cũng thương mẹ. Không thương sao được khi mẹ chính là đứa con gái duy nhất mà bà dứt ruột đẻ ra. Rồi mẹ sinh ra Hoài. Những cuộc đi cứ tiếp diễn, liên miên trên bến sông này và những bến sông khác nữa. Xóm ngày càng thưa vắng, xa xôi, heo hút tựa như một vùng đất hoang hoải, tiêu điều. Người ta mong cầu an vui chốn khác mà bỏ xa cái chốn khỉ ho cò gáy này. Người ta thích đèn điện hơn đèn dầu, thích nhà cao tầng hơn chòi tranh vách lá… Quê nghèo chỉ còn là vệt kí ức mà họ chẳng đoái hoài nghĩ suy.
Hoài vẫn nuôi cái mầm ước mơ ấy. Con tàu không lớn lên như cuộc đời của Hoài, nhưng nó vẫn chảy trong tâm tưởng của Hoài. Con tàu mang theo bóng hình của mẹ. Thời gian trôi qua, con tàu nâu trầm ngày một nâu trầm hơn nữa. Nước sông ngấm vào từng thớ vỏ của chiếc tàu, nó bóng loáng lên từng ngày, nó đẹp hơn nhưng lặng lẽ và u buồn hơn. Bây giờ, điều mà Hoài lo sợ nhất có lẽ là sự biến mất của chiếc tàu và sự ra đi của bà. Mỗi lần ngồi nhổ tóc sâu cho bà, Hoài lại ướt đôi mắt. Bà như ngọn đèn trước gió, còn Hoài như cái cây lớn dần lên trên cánh đồng mùa xuân. Hoài đẹp như mẹ – bà nói vậy. Tóc Hoài dài, da dẻ Hoài trắng hồng như da dẻ của mẹ, nắng không thể ngấm vào da Hoài như nước ngấm vào chiếc tàu huyền thoại ngang qua con sông chứng kiến từng đoạn đời của những người trong xóm vắng.
Hoài vẫn thường mơ, có thể là thấy mẹ, nhưng chưa bao giờ Hoài mơ thấy chiếc tàu gỗ nâu cập bến. Tàu chới với đưa bàn tay theo về phía chiếc tài để nắm níu nó lại, nhưng Hoài nhỏ bé và chiếc tàu ở xa quá. Hoài biết chiếc tàu với mình là một thứ xa vời, Hoài nghĩ suốt đời mình cũng chẳng thể nào nắm níu được.
Thế rồi, một buổi chiều Hoài đứng trên bến sông. Gió lất phất. Vầng trăng mọc sớm, nhưng chỉ nghiêng nghiêng một nửa và đẹp như một huyền thoại. Hoài bỗng thấy chiếc tàu chạy ngược, không xuôi chiều về xóm vô danh mù tít như từng ấy năm chiếc tàu vẫn chạy. Tàu ngược chiều. Hoài thấy không thuận mắt lắm vì vốn dĩ Hoài quen nhìn con tàu chạy theo cái chiều thân quen. Nhưng chuyến tàu ngược ấy mang đến cho Hoài một niềm hy vọng mới, nhất là khi Hoài thấy bóng dáng một người phụ nữ ngồi cạnh người đàn ông trên mũi tàu ngóng về phía Hoài, với tay về phía Hoài. Hoài không nhìn rõ mặt vì cái màu đỏ ối của hoàng hôn phủ mờ tất cả, nhưng lòng Hoài vỡ ra. Nước mắt ứa thành từng giọt lăn dài trên đôi gò má. Chiếc tàu rẽ sóng. Hoài đứng ở bến, nghĩ thầm: trời ơi, con tàu không ghé lại bến này chắc Hoài tan lòng nát dạ, đau hơn cả từng ấy năm đón đợi mong chờ. Bà nói đợi chờ chỉ thêm thất vọng. Hoài sợ vậy, Hoài lỡ đã đợi chờ bao mùa trăng không nhớ rõ. “Mẹ ơi” – Hoài không cố ý nhưng tự hai tiếng đó phát ra trong sâu thẳm của Hoài.
Rồi chiếc tàu ngược từ từ cập bến. Hoài càng nức nở hơn. Đúng thật là mẹ rồi. Mẹ đứng trên mũi tàu nhìn về phía Hoài. Chừng ấy năm Hoài chưa từng gặp mẹ, nhưng trong hình dung của Hoài về mẹ đúng như người đàn bà đang đứng trước mũi tàu, cạnh một người đàn ông mà Hoài biết chắc đó là ba chứ không phải người nào khác vì Hoài đã nhìn rõ khuôn mặt của người đó, trên khuôn mặt có những đường nét giống Hoài như đúc. Hoài gọi mẹ ơi! Hoài trờ tới, nếu không phải là nước sông thì Hoài đã chạy lại cạnh chiếc tàu. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời Hoài trông thấy chiếc tàu thật, thấy mẹ thật ngoài đời bằng thịt bằng xương. Một niềm hạnh phúc dâng lên ngập lòng Hoài. Hoàng hôn chập choạng, mẹ với ba bước lên trên bờ đất, chiếc tàu đi xa nhưng Hoài không thấy tiếc nuối, cũng chẳng hỏi tại sao ba mẹ lại bỏ Hoài đi chừng ấy năm trời. Bà nói sống là để thứ tha. Bởi giờ đây Hoài đã được hơi ấm từ mẹ truyền sang như dòng sữa ngọt ngào của mẹ chảy vào lòng Hoài cái thuở nằm nôi xa xưa lắm…
Bà tát nhẹ lên má Hoài, tuy nhẹ nhưng đủ để Hoài đau và mở mắt ra. Những tia nắng chiều rọi vào mắt Hoài chói lòa, nắng ngoài song cửa thì nhảy múa, vàng ửng. Bà nói:
– Mày mơ thấy gì mà ú ớ vậy Hoài?
Hoài dáo dác nhìn xung quanh. Rồi nhìn bà. Trong lòng Hoài ngổn ngang những dấu hỏi, còn tim Hoài thì buốt đau. Hoài nhận ra tất cả chỉ là một giấc mơ. Mẹ, ba, và chiếc tàu gỗ nâu trầm chỉ hiện về trong tiềm thức chứ không phải là ba mẹ bằng xương bằng thịt, cũng không phải là chiếc tàu bằng thứ gỗ nâu nồng mặn vị nước sông.
Hoài nhắm nghiềm mắt, hai hạt nước sóng sánh lăn xuống đôi gò má của Hoài, chảy vào bờ môi mặn chát. Trong thanh âm của tiếng chim ca và gió thổi, tiếng nước sông rạt rào, Hoài chợt nghe tiếng nói thâm trầm của bà. Tiếng của một người đã từng trải qua những đắng cay, ngọt lạt của cuộc đời, thủ thỉ: “Nín đi con, rồi mai này con lớn lên con sẽ thấy rằng đời này bạc bẽo lắm. Nhưng vẫn cứ chờ, Hoài nhé! Chỉ cần con cảm thấy điều đó là hạnh phúc!”…
Trong phút chốc, những xót xa tan biến, chỉ còn lại sự dịu dàng, bao dung và ấm áp hiền lương.
HOÀNG KHÁNH DUY