Trần Văn Cẩn: Một trong những danh họa hàng đầu Việt Nam
“Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn” – Nhắc đến bộ tứ danh họa hàng đầu trong nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam mà không kể đến người hoạ sĩ Trần Văn Cẩn (1910 – 1994) thì đó chắc chắn là 1 thiếu sót lớn. Chẳng hề xa xôi, mẫu Quốc huy chính thức của nước ta được sử dụng đến ngày nay chính là do người hoạ sĩ tài danh này chỉnh sửa và hoàn chỉnh.
Xuất thân và tuổi thơ
Hoạ sĩ Trần Văn Cẩn sinh ngày 13/8/1910 trong 1 gia đình trí thức nghèo tại Kiến An, Hải Phòng. Thân phụ của ông là công chức làm việc tại bưu điện, thân mẫu là nghệ nhân nặn tò he và làm đèn giấy nan tre trong khi người cậu cũng là nghệ nhân vẽ đèn giấy.
Trần Văn Cẩn được gia đình cho ăn học tử tế. Có lẽ một phần ảnh hưởng từ mẹ và cậu cộng thêm năng khiếu thiên phú, tình yêu với hội hoạ trong ông sớm bộc lộ từ thuở nhỏ và được thân phụ, gia đình tán thành.
Họa Sĩ Trần Văn Cẩn
Năm 15 tuổi (1925), ông thi đỗ và theo học nghề vẽ dentelle (đăng ten) và làm đồ gỗ tại Trường Bách Nghệ (Hà Nội). Sau khi tốt nghiệp, Trần Văn Cẩn về làm tại Sở cá Nha Trang, ông vẽ lại những mẫu cá lạ lưu để vào hồ sơ tư liệu.
Khoảng thời gian lăn lộn nơi đất biển đã mang đến cho ông tình yêu thương, gần gũi đặc biệt với người dân chài. Ông say mê vẽ phong cảnh, con người Nha Trang. Ông tái hiện lại vóc dáng vạm vỡ, nước da rám nắng cùng khung cảnh lao động ấn tượng của người dân miền biển trong nhiều bức tranh. Cũng từ đây, ý tưởng trở thành 1 hoạ sĩ dần nhen nhóm trong ông.
Cuộc đời và sự nghiệp
Năm 1931, Trần Văn Cẩn thi đậu và theo học về hội họa, đồ họa, trang trí tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, khóa VI (1931-1936). Bạn học 1 thuở cùng của ông là Lưu Văn Sìn, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Văn Tạo, Vũ Đức Nhuận, Nguyễn Thụy Nhân. Trong thời gian này, ông vừa học vừa sáng tác, bước đầu ra mắt những tác phẩm thực thụ đầu tiên.
Thể nghiệm thành công tranh sơn mài
Dù theo học về sơn dầu nhưng Trần Văn Cẩn không bỏ qua những chất liệu thuần túy dân tộc đã được các đàn anh khai xướng như: lụa (Nguyễn Phan Chánh), sơn mài (Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí), khắc gỗ, … Vị danh hoạ đã gặt hái thành công từ tất cả những chất liệu trên. Trong đó, đáng kể đầu tiên chính là quá trình tiên phong chuyển đổi sơn mài thủ công thành phương tiện biểu đạt tuyệt vời cho hội họa.
Năm 1933, Trần Văn Cẩn cùng với Phạm Hậu, Lê Phổ, Nguyễn Khang và Trần Quang Trân, tập trung nghiên cứu về kỹ thuật sơn ta. Họ tìm cách pha chế, vẽ chồng nhiều lớp sơn, sau đó áp dụng thêm kỹ thuật mài, thể nghiệm thành công tranh sơn mài từ sơn son, vỏ trứng.
Vị hoạ sĩ tiên phong trong tranh sơn mài, xuất sắc trong tất cả những phương tiện biểu đạt hội hoạ: Sơn mài, sơn dầu, tranh gỗ, tranh lụa, …
Năm 1934, tác phẩm đầu tay của ông với tên gọi “Mẹ tôi” được trưng bày tại triển lãm ở Paris. 1 năm sau đó, có đến 4 tác phẩm của ông là “Em gái tôi” (sơn dầu), “Cha con” (lụa), “Đi làm đồng” và “Cảnh bờ sông” (khắc gỗ màu) góp mặt trong triển lãm lần thứ nhất của Hội Khuyến khích Kỹ thuật và Công nghệ (SADEAL). Ông được tặng giải ngoại hạng đồng thời cũng được cử vào Ban giám khảo.
Năm 1936, tác phẩm tốt nghiệp “Lều chõng” của Trần Văn Cẩn được đánh giá rất cao. Ông được chính quyền thuộc địa đề cao nhưng lại từ chối đề nghị bổ nhiệm công việc để tập trung trải nghiệm, thử sức sáng tác trên nhiều chất liệu khác nhau.
Cùng với Tô Ngọc Vân, Lê Văn Đệ, Lương Xuân Nhị, … Trần Văn Cẩn là 1 trong những thành viên mẫn cán của nhóm FARTA. FARTA là nhóm các hoạ sĩ trẻ đầy tinh thần dân tộc tại Hà Nội, họ mong muốn được tự sáng tạo nghệ thuật.
Từ năm 1938 – 1942, nhóm tổ chức 2 cuộc triển lãm tranh gây được tiếng vang lớn lúc bấy giờ. Trong đó, 2 tác phẩm lần đầu tiên gửi tham gia phòng tranh là: “Em Thúy” (sơn dầu) và “Gội đầu” (khắc gỗ) đã giành giải thưởng.
“Em Thuý” – Kiệt tác nghệ thuật, Bảo vật quốc gia của Trần Văn Cẩn
Góp phần khai sinh ra nền nghệ thuật xã hội chủ nghĩa và dân tộc
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Trần Văn Cẩn hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc, tham gia vẽ tranh cổ động thể hiện tình cảm với phong trào đấu tranh giành độc lập. Những tác phẩm tranh cổ động của ông thời đó là: “Cứu nông dân”, “Trừ giặc đói”, “Phá xiềng” hay “Bản đồ Việt Nam không thể chia cắt”.
Tranh của ông còn mang chủ đề người lính, tình cảm quân dân sâu sắc ví dụ như bức“Nữ dân quân miền biển” này
Sau Cách mạng tháng Tám, tháng 9/1945, ông cùng nhiều họa sĩ khác dựng lên hàng chục bức tranh cổ động đặt quanh hồ Hoàn Kiếm. Đặc biệt, bức “Nước Việt Nam của người Việt Nam” do ông sáng tác chính là bức tranh đặc biệt được căng lên toà nhà Địa ốc ngân hàng – cũng chính là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày nay.
Năm 1946, bức tranh lụa “Xuống đồng” của Trần Văn Cẩn được trao giải nhất trong Triển lãm mỹ thuật toàn quốc được tổ chức lần đầu dưới chế độ mới tại Hà Nội. Tác phẩm cũng được Hội Văn hóa Cứu quốc mua lại với bức “Bác Hồ làm việc ở Bắc bộ phủ” của Tô Ngọc Vân và bức “Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh” của Nguyễn Đỗ Cung.
Người hoạ sĩ “có duyên” với chức vị
Trần Văn Cẩn là vị hoạ sĩ đặc biệt, ông đảm nhận nhiều vị trí quan trọng trong nền Mỹ thuật nước nhà.
Tháng 7/1948, trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc, ông được bầu vào Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam.
Tranh lụa “Ở hang” (1951)
Tháng 6/1954, ông thay thế Tô Ngọc Vân (vừa qua đời) đảm nhiệm vị trí Hiệu trưởng trường Mỹ thuật và tiếp tục cương vị đó trong 15 năm (1954 – 1969).
Ông cũng chính là Tổng thư ký Hội mỹ thuật Việt Nam nhiệm kỳ thứ nhất (1958 -1983); Chủ tịch hội nghệ sĩ tạo hình Việt Nam nhiệm kỳ 2 (1983-1989).
Từ năm 1978, ông trở thành Cộng tác viên của Viện hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà Dân chủ Ðức và hoạt động trong thời gian dài.
Tác phẩm “Tát nước đồng chiêm”
id=”docs-internal-guid-329b94be-7fff-1e59-4cc7-87fa3073c74b”>Trần Văn Cẩn mất năm 1994 tại Hà Nội. Ông để lại sự nghiệp sáng tác hơn 60 năm với hàng trăm bức hoạ cho người vợ đồng thời cũng là nhà điêu khắc gia Trần Thị Hồng và cũng coi nó như món quà mọn cuối cùng cho người bạn đời
Phong cách hội hoạ
Bút pháp hội hoạ của Trần Văn Cẩn mang đậm dấu ấn cá nhân, vừa hiện đại mới mẻ, giàu tính liên tưởng đồng thời vẫn đậm đà sắc vị dân gian cũng như bản sắc dân tộc. Tác phẩm của ông chân thực, nhẹ nhàng, không cường điệu. Chúng là kết quả của hành trình vừa gian nan nhưng cũng không kém phần hứng khởi.
Một tác phẩm ký hoạ màu nước của cố hoạ sĩ
Người hoạ sĩ này đã tìm tòi và sáng tạo không ngừng, tiếp thu nghệ thuật hàn lân Phương Tây kết hợp nhuần nhuỵ với bản sắc dân tộc được nghiên cứu dày công trong tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống hay các tác phẩm điêu khắc dân gian.
Tác phẩm tiêu biểu
Trần Văn Cẩn để lại cho nền hội hoạ Việt Nam một gia tài thật sự đồ sộ. Tác phẩm của ông được trưng tại bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cũng như được rất nhiều cá nhân, tổ chức nước ngoài yêu mến và sưu tầm.
Tác phẩm tiêu biểu của người hoạ sĩ này đi cùng theo từng năm tháng cuộc đời của ông. Không ít tác phẩm đã được nhắc đến trong các nội dung phía trên như:
Tranh sơn dầu “Em Thuý” (1944) – Được coi là đỉnh cao nghệ thuật Trần Văn Cẩn cũng như hội hoạ Việt Nam.
Tranh khắc gỗ “Gội đầu” – Tác phẩm đưa nghệ thuật khắc gỗ dân tộc lên một đỉnh cao mới.
Tranh lụa “Xuống đồng” – Được coi là bản hoà tấu chưa từng có của màu sắc và chất liệu trong tranh lụa Việt Nam.
Các tác phẩm tranh lụa được thực hiện trong 9 năm kháng chiến gian khổ mà hào hùng là: “Con đọc bầm nghe” (1954) và “Lò đúc lưỡi cày”(1955) thể hiện tinh thần mạnh mẽ, cá tính cùng niềm vui cuộc sống.
“Con đọc bầm nghe” (1954)
2 tác phẩm: “Mùa thu đan len” thực hiện trên chất liệu sơn dầu và tranh sơn mài “Tát nước đồng chiêm” cũng là những tác phẩm xuất sắc của vị hoạ sĩ tài hoa này.
Ngoài ra, không thể lãng quên mẫu quốc huy nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do vị hoạ sĩ này chỉnh sửa, hoàn thiện. Các tác phẩm khác như: “Nữ dân quân miền biển” (Sơn dầu 1960), “Thằng cu đất mỏ” (Sơn mài 1962)… Giá trị của những tác phẩm ấy quả thực khó có thể đo đếm.
Danh họa Trần Văn Cẩn – Cây đại thụ của làng Mỹ thuật Việt Nam. Ông dành trọn đời cống hiến, sáng tạo và theo đuổi nghệ thuật 1 cách nghiêm túc. Với những cống hiến để đời, ông được trao nhiều huân chương cao quý. Trong đó, đặc biệt nhất là Huân chương Lao động hạng nhất. 2 năm sau ngày vị hoạ sĩ này qua đời (năm 1996), ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật. Vị hoạ sĩ này là gương sáng chói về lao động nghệ thuật cho thế hệ trẻ ngày nay .
5/5 – (3 bình chọn)