Trần Thủ Độ và khoảng trống phía sau cuộc đời ông
34,130
lượt xem
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Giáp Tý năm thứ 7 (1264), mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời (71 tuổi), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung vũ Đại vương. Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua”.
Thông qua các tài liệu chính sử và văn bia, thần phả, thần tích, chúng ta được biết, Trần Thủ Độ là người có bản lĩnh chính trị và cá tính khác thường. Ông xử lý việc gì cũng thẳng thắn, quả quyết theo ý chí của mình, ít khi để cho tình cảm sai khiến. Ông là người luôn đặt lợi ích của dòng họ Đông A lên trên.
Có thể nói ông là nhân vật trụ cột, là người thực hiện thành công ý tưởng đoạt ngôi vua triều Lý về tay triều Trần mà Trần Tự Khánh trước đây thường ấp ủ nhưng không thực hiện được vì ông mất sớm (1223). Trần Thủ Độ là một đại công thần, là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước những năm đầu thời kỳ nhà Trần. Trong suốt 40 năm (1226-1264), cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với nghiệp đế của họ Trần, với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ đống tro tàn của triều Lý vào thế kỷ XIII.
Chiến công oanh liệt đánh bại quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258) và câu nói bất hủ, khảng khái, thể hiện ý chí của người anh hùng: “Đầu thần chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo” của ông, đã để lại trong dân tộc Việt Nam một hình tượng Trần Thủ Độ anh hùng, bất khuất, tài năng, quả cảm. Đánh giá về ông xưa nay vẫn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau; nhưng không thể phủ nhận được công lao to lớn của ông với Vương triều Trần và nhà nước Đại Việt.
Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194), ở Lưu Gia, Tinh Cương, hương Đa Cương (nay là làng Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Theo nguồn tư liệu điền dã của cụ Dương Quảng Châu, thì thân sinh của Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị. Đáng tiếc các tư liệu điền dã đó chưa đủ cơ sở để chứng minh một cách khoa học, chính xác về thân phụ của Trần Thủ Độ. Chính sử đều ghi ông mồ côi cha mẹ từ bé và ở với bác là Trần Lý chứ không ghi rõ bố mẹ ông là ai.
Thực tế khảo sát điền dã ở làng Mẹo (Thái Phương, Hưng Hà), chúng ta đã thấy rõ đền đình ở đây thờ lục vị thần hoàng (những vị thần hoàng này không có ai là họ Trần như một số người lầm tưởng); và cũng không thờ vị nào tên là Trần Hoằng Nghị được tôn là thần hoàng hay phúc thần của làng. Nhân vật được thờ ở làng Xuân La và Phương La là “Trang Nghị Đại Vương”. Đây là nhân vật mà một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là Trần Hoằng Nghị, nhưng theo thần phả, thần tích ở đình làng Xuân La thì Trang Nghị Đại Vương là một Thiên thần (con thần sấm) được vua Đường Trung Quốc và Cao Biền phong cho chứ không phải là một nhân thần.
Thực tế, nếu một người có công với dân với nước như Trần Hoằng Nghị: Khai hoang, lập ấp, dạy dân làm nghề, mở chợ, buôn bán và lại là thân sinh của Trần Thủ Độ (?) thì chắc hẳn triều đình phong kiến ngày xưa chí ít cũng phải phong cho ông làm một chức gì đó hoặc tôn ông làm thần hoàng và thờ ở đình làng. Ngay cả Trần Thủ Độ cũng không được thờ ở làng ứng Mão xa xưa thì quả là điều vô lý vì nó trái với đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt Namon>. Từ đó có thể nói rằng, đền Nhà Ông và Trần Hoằng Nghị không liên quan đến Trần Thủ Độ. Ông sinh ra ở Lưu Xá chứ không phải ở làng Mẹo như một số người lầm tưởng.
“Đại Việt sử ký toàn thư” từng ghi nhận thời Trần có hai người được vua cho lập sinh từ thờ khi vẫn còn sống là Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn. Vậy chẳng lẽ bố Trần Thủ Độ lại không được thờ phụng hoặc được truy phong, chí ít cũng là thần hoàng của một làng (?). Trong khi đó ở Hưng Hà hiện có năm làng thờ Trần Thủ Độ nhưng không phải là ở làng Mẹo mà là ở tổng Tống Xuyên xưa (nay gồm các xã Thái Hưng, Liên Hiệp thuộc Hưng Hà, Thái Bình).
Điều đó rõ ràng không phải nhà Trần quên Trần Hoằng Nghị mà thực ra không có nhân vật này. Thực tế chỉ có vị Thiên thần Trang Nghị Đại Vương được thờ ở xã Thái Phương mà thôi. Vì thế, không thể nói khi chưa đủ chứng cứ để khẳng định có nhân vật Trần Hoằng Nghị và càng không thể nói ông là thân sinh của Trần Thủ Độ được. Giáo sư Vũ Khiêu trong tổng kết cuộc hội thảo về Trần Hoằng Nghị tại Hà Nội năm 2007, khi đánh giá về việc ai là thân sinh của Trần Thủ Độ, đã nói: “Đây là vấn đề tồn nghi cần phải tìm hiểu các tư liệu ở các địa phương trong nước và ngoài nước. Tiến hành hội thảo nhiều lần mới đi đến kết luận chính xác được”.
Thực tế bố mẹ Trần Thủ Độ là ai, đến nay qua bảy, tám trăm năm vẫn chưa ai giải đáp được (kể cả Lê Văn Hưu – sử gia thời Trần; Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên – thời Lê).
Chính sử khẳng định Trần Lý ở Lưu Gia trang và chính sử cũng cho biết Trần Lý nuôi Trần Thủ Độ từ nhỏ. Từ đó có thể nói Trần Thủ Độ sinh ra ở đất Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình). Cuộc đời Trần Thủ Độ là cuộc đời của một con người tài ba, thao lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế… Có thể nói sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), Trần Thủ Độ là người kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp toan tính giành ngôi từ vương triều nhà Lý về tay nhà Trần. Đỉnh cao của toan tính này là “màn kịch” nhường ngôi vua của Lý Chiêu Hoàng cho chồng là Trần Cảnh vào cuối thời Lý (1225); mở đầu cho giai đoạn nắm quyền cai trị nước Đại Việt của Vương triều Trần. Khi còn sống, Trần Thủ Độ là người nắm thực quyền và là linh hồn của Vương triều Trần. Sử chép: “Thủ Độ tuy làm Tể tướng, nhưng mọi việc không việc gì là không để ý tới”. Thực tế khi Trần Cảnh bị ép lấy chị dâu (vợ Trần Liễu), bỏ lên Yên Tử nhưng cuối cùng cũng phải quay về kinh thành trước sự cứng rắn và khôn khéo của Trần Thủ Độ: “Vua ở đâu thì kinh thành ở đó”. Với tư tưởng có dựng được nước mạnh mới giữ được nước bền, Trần Thủ Độ tiến hành từng bước đổi mới đất nước Đại Việt.
Trần Thủ Độ là người không chỉ có mưu lược trong việc dựng nước và giữ nước mà ông còn là một người có đầu óc tổ chức, phát triển kinh tế đất nước. Các tư liệu lịch sử về việc đổi mới kinh tế thời Trần (khi Trần Thủ Độ còn sống) không có nhiều, nhưng qua các tài liệu hiện còn lưu giữ, ta có thể thấy rằng khi thực sự nắm quyền điều hành đất nước, Trần Thủ Độ và Vương triều Trần đã nhận thấy sự yếu kém về kinh tế của nhà nước Đại Việt dưới thời Lý Huệ Tông. Vì thế ông đã tiến hành cho phép chuyển công hữu thành tư hữu.
Cụ thể, “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi: “Tháng Sáu bán ruộng công, mỗi diện 5 quan tiền (diện tương đương với mẫu bây giờ), cho phép nhân dân mua làm ruộng tư”.
Sau khi đã nắm thực quyền trong tay, Thủ Độ đã tấu với vua không chỉ bán ruộng cho những người nông dân không tấc đất cắm dùi mà ông còn củng cố đê điều, đắp đê ngăn nước mặn, đào sông khai thông đường thuỷ, bộ. “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Tháng 3, sai các lộ đắp đê giữ nước sông, gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai Bạc), đắp suốt từ đầu nguồn đến bờ biển để giữ nước lụt khỏi tràn ngập. Đặt chức Hà đê Chánh phó sứ để trông coi. Chỗ đắp thì đo xem đắp mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê Đỉnh Nhĩ bắt đầu từ đấy”(1). Qua các tài liệu lịch sử triều đại thì các công trình thuỷ lợi dẫn nước, tiêu nước sản xuất nông nghiệp ở thời nhà Trần phát triển rất cao.
Trần Thủ Độ huy động không chỉ sức dân mà còn lệnh cho binh lính phải tham gia làm thuỷ lợi. “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi: “Tân Mão năm thứ 7 (1231), (Tống Thiên Định năm thứ 4), mùa xuân, tháng giêng, sai Nội Minh Tự là Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) trông coi các binh hữu đường phủ, đào vét các kênh trầm và hào từ phủ Thanh Hoá đến cõi Nam Diễn Châu”(2). Được sự tấu trình của Trần Độ, Trần Cảnh xuống chiếu cho cả nước Đại Việt dùng tiền “tinh bạch”, mỗi tiền là 60 đồng (tiền nộp cho nhà nước là tiền thượng cung thì mỗi tiền là 70 đồng).
“Năm Bính Thìn (1236), mùa xuân, tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các quan văn võ trong triều và các quan ở cung điện, lăng miếu, chia tiền thuế ban cấp theo thứ bậc” (Sđd). Không những thế, Trần Thủ Độ còn bỏ tiền đánh thuế bằng hiện vật, thu thuế bằng tiền mặt. Một sự đổi mới chính sách thuế theo sở hữu ruộng đất cũng là một việc làm hơn hẳn các triều đại trước. Nó thể hiện tư duy phát triển kinh tế rất cao của Trần Thủ Độ: “Nhân dân có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả… (riêng tô vẫn thu bằng thóc)” (Sđd).
“Tháng Chín, xuống chiếu cho các ty xét án được lấy tiền bình bạc” hoặc “duyệt sổ đinh” để thu thuế và cũng là để điều động xây dựng kinh tế, thành lập ra 61 phường ở kinh thành để quản lý việc giao thương. Rõ ràng, dưới sự quản lý và chỉ đạo của Trần Thủ Độ, kinh tế Đại Việt đã phát triển mạnh mẽ, việc buôn bán giao lưu bằng đường bộ, đường sông rất thuận lợi, không những thế ông còn chú trọng mở các thương cảng ven sông, biển để đẩy mạnh việc giao lưu buôn bán hàng hoá trong nước và ngoài nước.
Không chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà ông còn chủ trương phát triển Nho học. Trần Thủ Độ tâu vua cho xây Quốc Tử Giám, đẩy mạnh việc thi cử để tuyển chọn hiền tài cho đất nước: “Tháng 2 (1232), thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu, đệ tam giáp là Trần Chu Phổ”(1).
“Đinh Mùi năm thứ 16 (1247), mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn học trò. Cho Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa, lấy đỗ thái học sinh 48 người”(2). Chính nhờ sự chú ý và coi trọng (hiền tài là nguyên khí quốc gia) nên thời nhà Trần đã xuất hiện rất nhiều hiền tài phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt là trong ba cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, các nhân sĩ, tướng lĩnh Đại Việt, tuổi trẻ tài cao đã góp phần làm vẻ vang cho lịch sử dân tộc như: Nguyễn Hiền, Đặng Ma La, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải v.v…
Trần Thủ Độ còn hoạch định: “Chép công việc của quốc triều làm Bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển” (Sđd).
Ông đề ra khung bậc, thể thức của luật hình. Tạo đường cho Bộ Quốc triều hình luật ra đời để tiện việc nắm tình hình đất nước, quản lý chặt chẽ hơn. Trần Thủ Độ chia nước thành 12 lộ, mỗi lộ đặt chức chánh phủ xứ. Trần Thủ Độ còn duyệt định hộ khẩu trong cả nước, đặt các chức quan đại tư xã cùng các chức xã chính, xã quan. Không chỉ là người đề ra các tư tưởng pháp trị, mà ông còn để lại cho đời sau tấm gương về tính thẳng thắn, nghiêm túc trong việc thi hành luật. Đối với ông, luật pháp không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, bất cứ ai, dù là đối tượng nào, ở vị trí nào đi chăng nữa, nếu vi phạm lụât pháp đều bị xử lý theo đúng quốc luật đã ban hành. Nặng hay nhẹ tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm luật của người đó.
“Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Trần Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy”… (tr.478).
Tài năng nhìn người của ông được thể hiện ở việc “khi vua Trần Thái tông muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tướng, Thủ Độ nói: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho là thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc”… vua bèn thôi”(1). Phải chăng, Trần Thủ Độ đã sớm nhìn ra tính cách hai mặt của anh trai mình? Sự thật sau này An Quốc đã cùng với vợ (tương truyền là một công chúa nhà Lý) nổi loạn chống lại nhà Trần ở Quắc Hương, Vụ Bản, Namon> Định. Cuộc nổi loạn đã bị chính Trần Thủ Độ dẹp tan. Phải khẳng định rằng ông là người có bản lĩnh chính trị và cá tính đặc biệt trong lịch sử Việt Namon>. Ông làm việc gì cũng dứt khoát, xử lý quyết đoán theo ý chí của mình, ít để cho người khác sai khiến.
Ông luôn là người đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giành ngôi vua từ tay nhà Lý chuyển sang nhà Trần cũng như các cuộc chiến đấu chống lại các phe phái như Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn hoặc trong kháng chiến chống Nguyên Mông. Đối với ông hoặc là chết cả họ hoặc là được cả thiên hạ! Bất cứ việc gì có lợi cho dòng tộc nhà Trần thì ông đều quyết làm bằng được. Ông là người đa mưu túc trí, khi đánh dẹp các thế lực chống đối, ông thấy thắng thì đánh, thấy cần hòa hoãn để đợi thời cơ thì tiến hành đàm phán. Thậm chí gả cả em gái vua cho Nguyễn Nộn hoặc phong vương cho Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng (Đông Hải Đại Vương). Không những thế, ông còn bày mưu chia rẽ, gây mâu thuẫn để Nguyễn Nộn tiến đánh và giết Đoàn Thượng, nhằm mượn tay người để giảm bớt lực lượng chống đối mình.
Khi giặc Nguyên xâm lược Đại việt lần thứ nhất, ông là linh hồn của cuộc kháng chiến với câu nói bất hủ “Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ không cần lo ngại gì cả”(1). Ông là người ngồi trong màn trướng mà định việc thiên hạ; chỉ đạo các tướng Lê Tần, Trần Khánh Dư, Trần Phó Duyệt và kể cả Trần Hưng Đạo (lúc đó còn trẻ) ra trận. Ngay chính cả vua Trần Thái Tông, thái tử Trần Hoảng… cũng đều vác gươm đánh giặc. Trần Thủ Độ là nhà chính trị, kinh tế, quân sự toàn tài.
Ông một lòng trung thành với triều đình nhà Trần. Đối với ông, Vương triều Trần là tất cả. Ngay cả việc ép vợ Trần Liễu gả cho Trần Cảnh ông cũng dám làm. Không phải ông không nghĩ tới việc Trần Liễu có hay không có động thái phản ứng; mà điều ông quan tâm nhất là tương lai của ngai vàng triều đình do ông tốn bao công sức xây dựng lên, liệu có người nối dõi hay không. Ông quả là một công thần hiếm có của Vương triều Trần – Đại Việt và là một người anh hùng của dân tộc Việt Namon> ở thế kỷ thứ XIII.
Sử chép: “Giáp Tý năm thứ 7 (1264), Tống cảnh định năm thứ 5, Nguyên chí nguyên năm thứ 1, mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi 71), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương”.
Đặng Hùng
Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam