Tong quan ve Triet hoc va Viet triet
Tổng
Quan
về Triết Học và Việt Triết
Giáo
Sư John B. Trần Văn Ðoàn
Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan
2. Những
chiều hướng triết học
Triết học là một
môn học về tư tưởng thấy
trong bất cứ dân tộc nào. Tư
tưởng, hay suy tư tự nó chưa
phải là triết học. Chỉ có những
suy tư có hệ thống, minh bạch xác
đáng, có hiệu năng cũng như
có tính chất khoa học mới đáng
được gọi là triết học.
Thế nên từ đông sang tây,
tự cổ tới kim, triết học
thường được định
nghĩa như là nền học về sự
khôn ngoan (hay yêu quý sự khôn
ngoan, đeo đuổi sự khôn ngoan –
philosophia), hoặc như là một khoa học thực
hành (practical sciences), hay như một công cụ
của chân lý hay của thần học.
Tự thời nhà Châu (1111-249 BC),
những suy tư về vũ trụ, về
Thượng Ðế và về định
mệnh của con người đã được
hệ thống cũng như bàn luận. Mặc
dù danh từ triết học chỉ mới
được dịch sang tiếng Trung Hoa từ
Nhật ngữ vào cuối thế kỷ
19, ý nghĩa của triết học như
là một hệ thống về sự khôn
ngoan, về tính chất thực hành
(đạo đức) đã thấy
ngay trước thời Châu (tức
thời Hạ và Thượng, quãng
2183-1112 BC). Tương tự, mặc dù triết
học mới chỉ xuất hiện một
cách chính thức trong các trường
học từ thời Pháp thuộc,
Việt Triết như là một hệ thống
tư tưởng về định mệnh
Việt dân, về nếp sống, đạo
đức cũng như tổ chức
xã hội của dân tộc, đã
xuất hiện ngay thời lập quốc,
tức thời Hồng Bàng. Ðiểm
mà chúng ta muốn bàn tới
không phải chúng ta có một nền
Việt Triết hay không, song là Việt Triết
có những đặc tính gì, phương
pháp chi, hiệu năng ra sao, v.v… Lý do dễ
hiểu là, nếu chúng ta theo một chiều
hướng triết học của tây
phương, thí dụ triết học phân
tích (analytics), hay chiều hướng thực
chính (positivism), hay thực nghiệm (exprimentalism),
hay duy nghiệm (empiricism), chúng ta khó có
thể kiếm ra, đừng nói đến
hiểu cái gọi là Việt Triết.
Song nếu coi triết học như là triết
lý thực hành, triết học nhân
sinh, hay triết lý về định mệnh,
thì chúng ta rất dễ dàng nhận
thấy có một nền Việt Triết.
Ðể giúp các bạn trẻ hiểu
thêm về những điểm chính
yếu của Việt Triết (sẽ được
bàn đến trong phần tới), chúng
tôi xin mạn phép được mạn
đàm về những khuynh hướng
chính trong nền triết học từ
thời Hy lạp, hay từ thời
trước Khổng Tử cho tới
hiện đại, và sau đó thử
xác định Việt Triết trong những
chiều hướng này.
2.1. Triết
Học như là môn học về nguyên
lý tối hậu,
hay những nguyên nhân chính yếu
của con người và vũ trụ
Triết học, được
sử sách ghi lại, phát hiện từ
khi có lịch sử con người.
Vào thời đầu, triết học
được hiểu như môn học
về những huyền bí, những
sự biến đổi của thế giới
thiên nhiên. Những hiền triết
Hy Lạp quan sát sự kiện thiên biến
vạn hóa, và tìm ra một nguyên
lý, hay một động lực, hay một
yếu tố để giải thích hiện
tượng thiên nhiên. Họ hoặc nhận
nguyên chất như thủy, hỏa, khí,
hay yếu tố như vô định, số
tượng, hoặc nguyên tử như
là căn nguyên của người
Tàu về luật biến hóa của vũ
trụ. Ðạo, lưỡng cực, tứ
tượng, bát quái, v.v… là những
yếu tố cũng như biến dạng của
vũ trụ. Trong Việt Triết, chúng ta
cũng thấy những tư tưởng
về vũ trụ (vũ trụ luận) tương
tự. Qua những huyền thoại như
truyện bà “Nữ Oa đội đá
vá trời”, hay truyện của ông
“Bành Tổ”, hay truyện “Lạc Long
Quân với bà Âu Cơ đẻ
ra 100 trứng”, hay truyện “Thần Kim
Quy”, v.v…, ta thấy tư tưởng chính
yếu của Việt Triết vẫn là
đi kiếm một nguyên lý tối hậu
giải thích vũ trụ, định mệnh
con người và dân tộc.
2.2. Triết
Học như là công cụ khoa học
giúp con người nhận thức
chân lý, cũng như Thượng Ðế
Sự thực, như các
triết gia nhận ra, là không có một
yếu tố chi, cũng không có một
nguyên chất nào, càng không có
một động lực nào khác có
thể giải thích được cái
toàn thể, sự biến hóa, cũng
như định luật của vũ trụ.
Ðiều này, ngay từ thời
Su-Cát (Socrates) từng ngạo cười
những nhà ngụy biện (Sophists), triết
gia bắt đầu nhận ra sự vô
bổ của những kiến thức
về vũ trụ. Ðối với Su-Cát
và ngay cả A-Lý-Ða-Ðức
(Aristoteles), triết học là triết học
về con người! Thế nên, triết
học mang một mục đích giúp con
người nhận thức được
chính con người. Lần đầu
tiên chúng ta thấy xuất hiện môn
nhân học (Anthropology). Song con người
là gì? Câu hỏi hóc búa này,
cho đến nay vẫn chưa tìm ra được
câu trả lời thỏa mãn. Ðể
giải thích linh ư vạn vật, triết
gia bắt buộc phải tìm kiếm những
yếu tính khoa học (tức những
yếu tính có thể giải thích,
phán quyết, tiên đoán cũng
như xác quyết sự vật hay hiện
tượng. Hai tính chất phổ biến
(universal) và tất yếu (necessity) được
coi như là yếu tính của khoa học.
Theo các triết gia, những yếu tính
này hoặc phải là lý tính (reason)
với trường phái duy lý
(rationalism), hoặc là tinh thần (Spirit) với
trường phái duy linh (spiritualism), hoặc
là nguyên chất với trường
phái duy vật (materialism); chúng có thể
giải thích bản chất linh ư vạn
vật của con người. Bồ-La-Thư
(Platon) gọi cái nguyên lý tối hậu
có tính chất phổ biến và
tất yếu này là “quan niệm”
hay “lý hình”, trong khi A-Lý-Ða-Ðức
cho là nguyên nhân tối hậu. Dù
sao đi nữa, triết lý Hy-Lạp vẫn
không thỏa mãn được trí
thức của con người về vũ
trụ. Lịch sử con người cũng
như định mệnh của con người
không được triết Hy-Lạp giải
thích một cách thỏa đáng. Ðây
là một lý do chính yếu khiến
các thần học gia như thánh Âu-Cơ-Tinh
(St. Augustine) phải tổng hợp triết lý
Hy-Lạp với truyền thống Dothái:
đối với ngài chỉ có
Thượng Ðế mới là
nguyên lý, động lực cũng
như căn nguyên tối hậu giải thích
cũng như quyết định vận mệnh,
quy luật của vũ trụ, hạn chế vào
công việc tìm cách chứng minh
sự hiện hữu của Thượng
Ðế mà thôi. Triết học biến
thành nữ tì của Thần Học
(philosophia theologiae ancilla). Trong triết học Trung Hoa,
chúng ta nhận thấy một biến thiên
tương tự, tuy thiếu minh bạch và
biện luận, từ việc giải thích
vũ trụ như là thiên, (thiên đồng
nghĩa với thiên nhiên, hay thế
giới nằm trên con người)
cho tới việc coi Thiên như là chúa
tể. Người Tàu tự trước
thời Châu tới thời Xuân
Thu (thời Khổng Tử) đã
coi Thiên như là một nguyên lý,
động lực cũng như Thượng
Ðế để giải thích cũng
như quyết đoán số mệnh của
vũ trụ và con người. Trong Việt
Triết, chúng ta nhận thấy những
suy tư tương tự. Con người,
trên con đường đi tìm nguyên
lý tối hậu, hay một động lực
tối thượng thường phát
hiện đấng tối cao, tức Thượng
Ðế. Nếu không tìm ra Ngài,
chúng ta tự thần thánh hóa con
người, với mục đích
nhờ Thượng Ðế để
giải đáp những khó khăn
mà con người không thể tự
lực giải quyết. Những khó
khăn này thường là những
vấn nạn của con người như
định mệnh, sinh mệnh vấn đề
sống còn, cũng như những vấn
nạn liên quan như chủng tộc và quốc
gia. Thế nên khi tổ tiên chúng ta
tôn thờ thánh Dóng, tôn kính
thánh Trần Hưng Ðạo, hay bái
thờ hai bà Trưng, đây không
phải chỉ là những hành vi thiếu
ý thức. Ngược lại, chúng
mang một ý nghĩa triết học sâu
sa về định mệnh của dân tộc.
Chính vì thế, chúng ta không được
phép khinh thường dã sử.
Trong dã sử, thí dụ những
truyện về bà Nữ Oa đội
đá vá trời, ông Bành
Tổ khai thiên lập quốc, Lạc Long Quân
và Âu Cơ đẻ 100 trứng,
v.v…, đều hàm ngụ minh triết của
Việt dân. Sự gắn bó với
định mệnh cũng như công việc
đi tìm kiếm và giải đáp
định mệnh của con người nói
lên tinh thần tôn giáo của người
Việt. Nơi đây có một điểm
khác biệt nhỏ giữa Việt Triết
và Hán Triết, đó là nếu
ở bên Trung Hoa, Nho học được
chia ra làm hai nhánh: tư tưởng
nho gia và nho giáo, và nếu người
Tàu họ trọng dụng Nho học nhưng khinh
thường Nho giáo, thì người
Việt chúng ta thường chú trọng
nhiều hơn tới Nho giáo. Ðiểm
này cũng nói lên, Việt Triết
không chỉ bị hạn hẹp trong trí thức,
song tiềm tàng trong đời sống
của Việt dân.
2.3. Triết
Học như là môn học giúp con người
đạt tới tri thức chân thực
Thế nhưng, định mệnh
của con người không thể chứng
minh một cách khoa học được.
Ðịnh mệnh, Thượng Ðế,
khát vọng về cực lạc, tuy chân
thật song ta không dễ dàng gì chứng
minh được sự hiện hữu
cũng như bản chất của Ngài,
cũng như khó có thể xác định
được những khát vọng
con người một cách minh bạch. Thượng
Ðế chỉ mặc khải cho những
người tin yêu Ngài. Thượng
Ðế chỉ xuất hiện với những
người đơn sơ như các
trẻ nhỏ. Chính vì vậy, ngay vào
thời Trung Cổ, các triết gia đã
nhận ra điểm này khi họ xác định
tính chất thiết yếu và ưu tiên
của đức tin: credo ut intelligam (tin để
hiểu), hoặc credo quia absurdum (tin vì phi lý).
Ngay cả vào thời hiện đại,
những triết gia duy lý như Khang-Ðức
(Kant) cũng phải chấp nhận một sự
kiện, đó là ba nguyên tố (postulata)
như Thượng Ðế, Tự Do và
Linh Hồn bất diệt là những sự
thật hiển nhiên, song không thể dùng
lý trí để chứng minh.
Sự phát triển của
khoa học, nhất là toán học và
thiên văn học, khiến con người
có ảo tưởng, quả quyết
cho bất cứ điều gì chân
thực, cũng có thể chứng
minh được. Sự thành công
của các nhà bác học như linh
mục Cơ-Bạch-Ni (N. Copernicus, Kopernig), Kép-Lân
(J. Kepler) và Gia-Li-Lê-Âu (G. Galileo), và
nhất là Như-Tuần (Isaac Newton) vào
những thế kỷ 16 và 17 khiến
ảo tưởng này biến thành
một tín lý. Với một niềm
tin như vậy, họ cổ võ triết học
tự lập, thoát khỏi sự trao buộc
của thần học. Triết học đầu
thai biến thành một công cụ trí
thức. Chúng ta không lấy làm
lạ gì nếu nền triết học hiện
đại (epistemology hay gnoseology). Ðối với
những triết học như Ðệ-Các
(René Descartes) hay Ba-Công (Francis Bacon), mục
đích của triết học hạn hẹp
vào trong công việc chứng minh sự
chân thật hay giả dối, đúng
hay sai mà thôi. Là một công cụ
của trí thức, triết học càng
chú trọng tới phương pháp.
Một phương pháp đúng sẽ
đưa tới một kiến thức
xác thực. Thế nên, đối
với các triết gia này, để
chứng minh đúng hay sai, chúng ta trước
hết phải tìm ra một phương pháp
có hiệu năng. Nói cách khác,
triết học của họ chỉ là một
phương pháp luận (methodology) nhiều hơn
là tri thức luận. Phương pháp
hiệu năng nhất đối với
Ðệ-Các đó là phương
pháp của toán học, nhất là
phương pháp phân tích (analytic). Phương
pháp này có thể chứng minh
bất cứ điều chân thật
nào cũng phải tinh tuyền và minh
bạch (clara et distincta) mà chúng ta không
thể hồ nghi. Ðối với Ba-Công,
phương pháp hữu nghiệm nhất
là phương pháp quy nạp (induction): chỉ
những tri thức nào có thể
chứng minh được bằng kinh
nghiệm (empirical) hay thực nghiệm (experimental)
mới đáng được gọi
là tri thức. Những triết gia
sau, bao gồm Khang -Ðức và Lữ-Kha
(John Locke) cũng như Huy-Mai (David Hume) phát triển
hai phương pháp của Ðệ-Các
và của Ba-Công tới mức
điêu luyện hơn mà thôi.
Nhiều người bị
ảnh hưởng của triết Tây
Phương, thường nhận định
là triết đông nói chung, và
Việt Triết nói riêng, thiếu một
nền trí thức luận, và nhất
là phương pháp luận. Lối phê
bình của họ một phần nào đúng,
song cũng có phần sai. Trên thực
tế, triết đông nói chung và
Việt Triết nói riêng, quả thực
không có cống hiến được
một phương pháp hoàn toàn khoa
học chắc chắn. Ngay trong Kinh Dịch, những
bản tính toán cũng không được
chính xác như toán học của Âu-Kỳ-Ðệ
(Euclides). Ngay vào thời gọi là duy
lý như thời Tống và Minh, những
luận lý của Công Tôn-Dương
cũng khó có thể đạt được
tính chất chặt chẽ thấy trong hệ
thống luận lý hình thức của
Tây Phương. Song, nếu chúng ta chú
ý tới lối tư duy của người
Việt, một điểm mà không ai có
thể từ chối được, là
người Việt áp dụng thực
nghiệm với kinh nghiệm để đưa
ra một tri thức xác đáng. Thí
dụ câu phong dao: “Chết cha ăn cơm
với cá, chết mẹ liếm lá
đầu đường” nói lên
một kiến thức xã hội: người
mẹ chăm sóc con kỹ lưỡng
hơn người cha. Kiến thức
này rút ra từ những kinh nghiệm
của đại chúng được
thực nghiệm quảng đại. Mức
xác đáng của câu phong dao trên
có thể đạt tới gần 100%.
(Tuy nhiên kiến thức trên không
thể bảo đảm là người
mẹ yêu con cái hơn người
cha).
2.4. Triết
Học như là một hệ thống luận
lý
xác định lịch sử nhân loại
Nhưng hạn chế triết
học vào một nền tri thức luận
không những chỉ biến triết học
thành một công cụ hay phương pháp,
mà còn làm triết học nghèo
đói thêm. Những triết gia như
Huyền-Cách (Georg F. Hegel) và ngay cả Mã-Sỹ
(Karl Marx) nhận định triết học như
là một tinh thần của thời đại
hay của một dân tộc (Zeitsgeist và Volksgeist).
Như là tinh thần, triết học hướng
dẫn cả lịch sử nhân loại,
cũng như xác định và tiên
đoán được cả lịch
sử. Mỗi thời kỳ, mỗi
biến cố, mỗi nền văn hóa
hay nghệ thuật, mỗi tôn giáo, v.v…,
chỉ là những lối xuất hiện
khác biệt của tinh thần mà thôi.
Tuy phản đối Huyền-Cách, Mã-Sỹ
vẫn theo lịch sử quan của Huyền-Cách.
Họ Mã chỉ lật ngược lại
cái luận lý tinh thần của Huyền-Cách
mà thôi. Ðối với Mã-Sỹ,
triết học không những chỉ hướng
dẫn lịch sử mà còn phản
ảnh tất cả thế giới con người.
(Karl Marx, Theses ober Feuerbach, These 11).
Triết đông, nhất
là triết của Nho giáo, Ðạo
giáo và Phật giáo, không những
phản ảnh được tâm linh con
người, mà còn đòi hỏi
biến đổi định mệnh hay lịch
sử của con người. Những
quan niệm cho rằng triết đông thụ
động, không liên quan tới lịch
sử, thật ra hoàn toàn sai lầm.
Việt Triết, một phần bị ảnh hưởng
của tam giáo rất sâu, một phần
tự bản chất của mình, không
những không phải là một suy tư
thiếu liên quan tới vận mệnh con
người. Việt Triết, như thấy
trong huyền thoại, luôn đưa ra một
cái nhìn, hay một luận lý về
lịch sử của Việt dân. Bản
Bình Ngô Ðại Cáo không chỉ
bàn đến việc đánh bại
quân Ngô, bảo vệ đất nước,
song còn nói đến tương lai tinh
thần dân tộc, nói lên cái cộng
cảm (consensus communis), cộng tính siêu việt
(transcendence) và những bản chất khác
của người Việt. Bình Ngô
Ðại Cáo không chỉ là một
lời hịch; Bình Ngô Ðại
Cáo là một bản tuyên ngôn (Manifesto).
Ðây là những điểm mà
triết gia người Phổ, ông Phi-Thời
(J. Fichte), mãi vào thế kỷ 19 mới
nhận ra khi viết bản Ðức Quốc
Tuyên Cáo Luận (Reden an die deutsche Nation); những
điểm mà Mã-Sỹ mới nhận
thức được khi soạn thảo
bản tuyên ngôn của cộng sản (1848).
2.5. Triết
Học như là một suy tư tìm cách
biến đổi thế giới
Như từng bàn tới
trong điểm trên (2.4), triết học cũng
là một triết lý hành động.
Khác với những lối triết
học được bàn cãi tại
các bữa tiệc, hay trong phòng khách;
ngược lại với những triết
học được coi như đồ trang
sức cho các vua chúa hay các bà
hoàng, hay như công cụ thuần túy,
triết đông nói chung và Việt
triết nói riêng, là một nền
triết lý hành động. Song không
hoàn toàn giống triết học của
Mã-Sỹ (như nhiều vị bị ảnh
hưởng của Mã-thuyết (Marxism)
hay cộng-thuyết (communism) như nhóm triết
gia tại Trung Hoa đại lục, hay tại Việt
Nam chủ trương, triết hành động
của đông phương không nhằm
gạt bỏ những điều kiện của
thiên nhiên một cách quá khích,
song sống theo thiên nhiên (Ðạo Lão),
hoặc dựa vào luật thiên nhiên
để xây dựng xã hội (Khổng
giáo). Ngoại trừ Phật giáo, tìm
cách thoát ly vòng luân hồi của
sinh tử, va coi hư vô như là một
lối giải quyết tường tận
của những vấn nạn nhân sinh (sinh,
lão, bệnh và tử). Triết đông
nói chung liên hệ trực tiếp với
con người trong xã hội hay trong vũ
trụ (thiên nhiên). Như chúng tôi
đã nhận định, Việt triết
không chỉ thụ hưởng những
tư tưởng của tam giáo, mà
Việt Triết còn tổng hợp những
tư tưởng này với tư tưởng
của Việt dân. Thí dụ như cụ
Nguyễn Du, tuy bị ảnh hưởng của
Phật giáo về định mệnh con người:
Trăm năm trong cõi người
ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là
ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà
đau đớn lòng.
song cụ không yếm thế,
bi quan tìm cách trốn lánh cuộc đời
như Phật Giáo, cụ nhận định
là tu tâm mới chính là phương
thế hữu hiệu đạt thân, hay
đi xa hơn, tu tâm là một phương
cách biến đổi con người
và thế giới:
Thiện căn ở tại
lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài.
Như cụ Nguyễn Du, đa
số các triết gia Việt hướng
theo triết lý thực hành, tổng
hợp lối nhìn của tam giáo với
lối tư duy của Việt Triết để
cải biến con người và xã
hội Việt. Về phương diện này,
ảnh hưởng của Nho Học trên
tư tưởng Việt Triết rất rõ
rệt: quan niệm “Tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ” (Ðại
Học, chương I) ảnh hưởng tới
thuyết thiện tâm (Mạnh Tử) và
tu tâm (Khổng Tử) của Nguyễn Du.
2.6. Triết
Học như là môn học
giúp con người sống có giá
trị và nhân cách
Tương tự như khuynh
hướng trên (2.5), triết học thực
hành đòi hỏi một triết học
tự thức (self-consciousness). Một triết
gia người Ðức, Khang-Ðức
tiên sinh (Kant) từng nhận định
một cách rất xác đáng về
tự thức. Ông cho tự thức
như là tượng trưng của tự
do, lý tính và đạo đức.
Thiếu tự thức, con người
không ý thức được tự
do, đạo đức. Nói cách
khác, con người thiếu lý tính.
Triết học tự thức, có lẽ
trừ Trương Tử và các
triết gia bị ảnh hưởng của
Phật Giáo từng nhấn mạnh tới
tự thức, đa số các triết
gia đông phương không để
tâm nhiều tới cái tự ngã.
Như chúng ta biết, từ Ðệ-Các
qua Khang-Ðức tới triết học
đương thời như Hốt-Siêu
(Edmund Husserl), tự thức là điểm
tối yếu của suy tư. Trong Việt Triết,
chúng ta không kiếm ra một triết gia
nào chú trọng tới vấn đề
tự thức. Ngay vào những thời
nhà Ðinh, Lê, Lý và Trần,
khi mà Phật giáo rất hưng thịnh,
triết lý nhập thế vẫn lấn
át những khái niệm về tự
tính và chân tâm hay phật tính.
Ðây có lẽ là một nguyên
do, tại sao trên thực hành, Người
Việt có một nền đạo đức
cao độ, song trên lý thuyết, chúng
ta chưa có một nền đạo đức
cá biệt nào. Sự thiếu lý
thuyết về đạo đức khiến
chúng ta thiếu một nền khoa học đặc
biệt về đạo đức của
người Việt.
Tương tự, vì thiếu
một lý thuyết căn bản, chúng
ta thường dựa vào cảm tính
hơn là lý tính. Sự kiện này
có thể thấy rõ ràng trong việc
chúng ta tôn trọng con người, song
không có một nền luật pháp bảo
vệ giá trị con người. Việt
Triết, để có thể phát xuất
hiệu năng trong những lãnh vực
thực hành như đạo đức,
chính trị, bắt buộc phải chú
trọng nhiều hơn đến vấn đề
tự thức. Lối tự thức
này không phải kiểu tự thức
của Lão-Trương hay Phật giáo, mà
hành động tự thức mà
Khang-Ðức từng nhấn mạnh.
Ðó là hành động tự
thức về quyền tự lập (autonomy)
của con người trong những hành
vi lập pháp, lập đức. Ðó
cũng là hành động tự thức
về tự do tính do Thượng Ðế
phú bẩm cho mọi người.
2.7. Triết
Học là một môn học giúp con người
kiếm ra lối giải đáp tối
hậu cho những vấn nạn con người
Như trong 2.4 và 2.5 cũng
như 2.6 liên hệ tới triết lý
thực hành, Việt Triết rất chú
trọng tới việc làm sao có thể
giải đáp những vấn nạn
tối hậu của con người. Thực
ra, lối giải đáp mà tổ tiên
chúng ta chấp nhận, phần nào ảnh
hưởng của Phật giáo, song phần
lớn phát xuất tự cõi lòng
của dân tộc. Nếu Phật giáo nhận
định niết-bàn (nivana) như là
lối giải đáp tối hậu (theo
đó, con người hoàn toàn
thoát ly vận mệnh, đi vào một
chân không: không còn sinh, không còn
tử, cũng không có chi liên hệ
đến thế gian). Nếu Kitô giáo
và cả nền văn hóa Âu Mỹ
nhận định là, chỉ khi nào con
người tự thoát khỏi những
dơ bụi trần thế (tội lỗi), và
trở lại kết hiệp với Thượng
Ðế, thì lúc đó chúng
ta mới tìm ra được chung cực,
thì Việt triết nhận định, giải
đáp về những vấn nạn
của con người, tuy theo tầm mức
khó khăn của mọi vấn nạn, đòi
hỏi chúng ta phải có nhiều lối
giải quyết khác biệt:
1. Lối giải quyết
tối hậu thấy trong Phật giáo và
Kitô giáo liên quan tới những
vấn nạn hằng hữu về định
mệnh của con người, về sự
tương quan giữa con người và
Thượng Ðế và về tương
lai của con người và vũ trụ.
2. Lối giải quyết
bằng cách biến hóa bản tính
của con người nhằm đạt tới
một mục đích thiện hữu. Thí
dụ quan niệm nhân quả như trồng
thiện đạt thiện, gieo gió gặt bão,
ác giả ác báo, v.v… Lối giải
quyết bằng những cách cải đổi
bản chất của con người có
thể giải quyết những vấn nạn
một cách hiệu quả và tương
đối lâu dài. Ðây cũng
là một lối giải đáp mà
chúng ta thường thấy trong Phật
giáo và trong một tương quan thường
nhật của con người. Trên thực
tế, tuy người Việt theo nhân quả,
song họ không hoàn toàn theo lý thuyết
của Phật giáo. Bởi vì nếu
hành thiện chỉ để có thể
thoát khỏi vòng luân hồi, theo người
Việt, vẫn chưa đủ. Chúng ta hành
thiện, mục đích chính là để
cải hóa hiện sinh và hậu sinh. Chính
nơi đây, chúng ta nhận thấy lối
suy tư của người Việt không
hoàn toàn theo định luật của
nhân quả, theo luận lý của tương
quan hiện sinh, một hiện sinh trường
cửu nối dài từ đời
này đến đời khác; một
lối hiện sinh của dòng dõi và
của một dân tộc. Chính vì vậy
mà chúng ta hành thiện mục đích
để nhân lại cho thế hệ sau, giúp
người nối dõi có thể
đạt được thiện quả. Thế
hệ sau, nhất là trưởng nam, được
coi như nối dõi tông đường,
biểu hiện cho sự hiện sinh của chính
chủ thể.
3. Lối giải quyết
thứ ba cũng là một lối giải
quyết hiện thực, tức cải thiện
chế độ hay chính trị và kinh
tế. Như chúng ta thấy, các triết
gia Việt chia làm ba trường phái,
mỗi phái chọn lựa một lối
giải quyết khác biệt, nhưng không
hoàn toàn tách biệt. Nhiều học
giả, thoạt nhìn ba lối giải đáp
khác nhau đã vội kết luận là
ba phái chính, tức phái Phật
giáo, phái Ðạo giáo, và phái
Khổng giáo, hoàn toàn khác nhau,
bởi vì họ chọn lựa ba lối
giải đáp khác nhau: diệt thế
(Phật), thoát thế (Ðạo) và Nhập
thế (Khổng). Trên thực tế, đa
số Việt dân không phân biệt tam
giáo, hoặc đa số nhận định
tam giáo được đồng nguyên,
nên ba giải đáp trên đều
được chấp nhận, và nhất
là được tổng hợp một
cách siêu việt (điểm này sẽ
bàn rộng hơn trong phần bàn về
Siêu Việt Biện Chứng phần 3.2.2).
Hiểu theo lối này, Việt Triết mang
tính chất thực dụng song không duy
vật, thực tiễn song lại lãng mạn,
vị lý song không duy lý, vị cảm
song không duy cảm.
Thoạt nhìn có vẻ
mâu thuẫn, nhưng trên thực tế
và trên bình diện hiện sinh, Việt
triết có thể phát xuất nhiều
hiệu năng hơn bất cứ các
nền triết học duy tâm, duy lý, duy
linh, duy nghiệm, hay duy vật. Những tôn
giáo như Phật giáo Hòa Hảo, Phật
giáo Cao Ðài, đạo Dừa,
v.v…, tuy mới xuất hiện vào đầu
thế kỷ 20 song đã được
hàng triệu người Việt tin theo,
chứng minh là những tôn giáo
này bị ảnh hưởng nặng nề
của Việt Triết, hay đúng hơn,
lối tư duy của Việt Triết. Những
đạo này có thể được
gọi một cách không sai lầm là
đạo dân gian (Volksreligion), vì chúng
đại biểu tinh thần của quần
chúng Việt.
2.8. Triết
Học là một môn học
đại biểu tinh thần dân tộc,
giúp dân tộc nhận ra bản tính
đồng nhất,
cũng như giúp con người xã
hội
giải quyết những vấn nạn xã
hội
Phần này, tuy lập lại
phần nào mục đích thấy trong
các phần trên song càng thực
tiển. Nó nói lên phần quan trọng
nhất của triết lý thực hành.
Như là một triết lý thực
hành, triết học phải vạch rõ
rệt và cụ thể cái mục đích
của mình. Thế nên, triết học
phải nhắm tới giải đáp
những vấn nạn không phải của
cá nhân mà còn của cả dân
tộc. Chính vì thế, triết học
còn đại biểu cho một ý thức
hệ, hay tinh thần của dân tộc cũng
như của một thời đại. Nếu
chúng ta hiểu ý thức hệ, tôn
giáo, hay triết học như tinh hoa, cũng
như sự biểu tượng và dự
phóng tính của con người thực
tế trong một xã hội hiện thực
thì điểm mà chúng ta bắt buộc
phải thảo luận là triết học có
thể đại biểu Việt dân và
tinh thần của dân tộc hay không. Như
thường thấy, các nền tư
tưởng Việt thường biểu
lộ lối suy tư của dân tộc trong
một thời đại cũng như trong
một không gian nào đó. Thí dụ,
tư tưởng yếm thế của Trần
Tế Xương, hay Tản Ðà phản
ảnh thời loạn ly, đạo đức
suy đồi và tâm lý bất lực
của kẻ sĩ. Những cái nhìn
bất cần đời của Tú
Xương nói lên những vấn
nạn của dân tộc vượt khỏi
khả năng của kẻ sĩ. Tương
tự, tư tưởng của Hồ Biểu
Chánh, phần nào bị ảnh hưởng
của xã hội thời Pháp thuộc
tại miền Nam, phần do địa lý
thuận hòa cũng như sự chất
phác của nông dân miền Nam vào
đầu thế kỷ 20. Chính vì thế
mà chúng ta có thể xác quyết
là, mỗi thời đại đều
có một nền triết học. Triết
học, cũng như tôn giáo, giống
như tấm gương, phản chiếu lại
thời đại và con người
trong thời đại này.
Triết học không chỉ
phản ảnh thời đại hay tâm
lý quần chúng (thấy trong các văn
phạm, thí dụ của Tản Ðà
hay Hồ Biểu Chánh). Triết học tìm
cách giải quyết những điều
khó khăn mà chính trị, kinh tế
hay vũ lực không thể giải quyết.
Chỉ ở vào thời đại
loạn ly như thời Xuân thu (480-BC) khi
mà mạng sống con người hoàn
toàn mất giá trị, chúng ta mới
thấy được khát vọng hòa
bình của người dân. Chỉ vào
thời loạn quốc, khi mà vũ lực,
uy lực, quyền lực không thể
giải quyết được chiến tranh,
không thể tạo hòa bình và hạnh
phúc, con người mới nỗ
lực đi tìm kiếm một giải
đáp. Triết học của Khổng Tử
không những nói lên khát vọng
này mà còn cố gắng đưa
ra một biện pháp nhằm giải quyết,
cũng như mang hòa bình lại cho đất
nước, mang hoan lạc cho quần chúng.
Tương tự, tư tưởng của
nhóm Tự Lực Văn Ðoàn
phản ảnh lối nhìn chung của giới
trí thức muốn cải đổi
đất nước vào đầu
thế kỷ này. Những chứng
minh trên khiến chúng tôi đi đến
một số điểm mà, triết học
bắt buộc phải có như sau:
1. Triết học phải
nói lên khát vọng chung của dân
tộc trong một thời đại;
2. Triết học phải
tìm ra những vấn nạn của con người
cũng như của đất nước;
3. Triết học phải
cố gắng đi tìm giải pháp hữu
hiệu nhằm giải quyết những vấn
nạn này.
Nói chung, triết học
có thể được coi như là
một ý thức hệ, cũng như
phản tỉnh và tu chính
nền ý thức hệ này. Ðồng
thời, triết học cũng là một
nền triết học thực hành, chứng
nghiệm, gạt bỏ và bổ túc những
ý thức hệ. Triết tây tiến
bộ hơn Triết Ðông, lý do chính
là họ biết phản tỉnh và phê
bình những ý thức hệ cũ.
Trong khi ở đông phương, những
tư tưởng nhất là phần hủ
bại của Nho giáo, Ðạo giáo, Phật
giáo không hề được phản
tỉnh đừng nói đến phê
bình và cải tiến.
2.9. Triết
Học như là một lối biểu hiện
tính chất tồn tại của con người
Tuy hướng về quan
niệm của một nền triết lý thực
hành, chúng ta cũng không được
phép gạt bỏ những quan niệm về
triết học như một lối biểu tượng
của con người cá nhân, hay con
người tại thế, hay của con người
ý thức về thân thể, cảm
giác cũng như định mệnh của
mình. Vào đầu thế kỷ 20, khi
nhận ra hiện tính của con người,
tức bản chất tại thế, hiện
sinh, hiện thực, cũng như cảm giác
đã từng bị các triết
học duy lý, duy linh, duy vật và duy tâm
gạt bỏ, những nhà triết gia thuộc
trường phái hiện sinh khai quật
những tư tưởng của Nghịch-Tài
(Friedrich Nietzche) và Kỳ-Cơ-Nhã (Soren
Kierkegaard) (hai triết gia vào cuối thế
kỷ 19) về hiện thực tính của
hữu thể. Những triết gia như
Hải-Ðức-Cách (Martin Heidegger), Gi-Phi
(Karl Jaspers) tại Ðức, Mạc-Sen (Gabriel
Marcel), Sa-Thời (Jean-Paul-Satre), Ca-Mỹ (Albert
Camus), v.v…, tại Pháp phát động phong
trào tồn sinh và hiện sinh nhận định
ưu tiên tính của hiện tính vuợt
khỏi bản thể tính của con người
(existence prior to essence).
Suy tư về hiện tính
của con người là một phần
quan trọng trong triết đông nhất là
Việt Triết. Tuy không hoàn toàn đồng
ý với nhiều chuyên gia nhận
định là triết đông thiếu
hữu thể học (ontology) cũng như
trí thức luận (epistemology) và siêu
hình học (metaphysics), chúng tôi phải
chấp nhận là, triết học ở
Việt Nam trên thực tế là triết
hiện sinh. Hai luận văn của Giáo Sư
Vũ Ðình Trác về triết học
của Nguyễn Công Trứ và Nguyễn
Du chứng minh rõ điều này.
Tuy thế, chúng ta phải chú ý là,
khi nói tới hiện sinh, ý nghĩa
chính là hiện tính tức tính
chất hiện thể và thực thể
của cuộc sống nhân sinh, chứ không
phải cái hiện tượng của thân
thể như thấy trong các phân tích
của Sa-Thời, Ca-Mỹ và nhất
là Mặc-Lự Phong-Ðệ (Merleau-Ponty).
2.10. Triết
Học chỉ là một công cụ phân
tích
Ðây là một lối
nhìn cho triết học chỉ là một
công cụ để giúp tư tưởng,
hay ngôn ngữ minh bạch, và không
hồ đồ. Lối nhìn này, tuy
kế tiếp truyền thống duy nghiệm và
thực nghiệm của các nhà triết
học người Anh, phát triển mạnh
mẽ vào đầu thế kỷ 20 tại
Anh và Mỹ. Nhà triết học người
Áo, ông Vỹ-Cân-Ðan (ludwig Wittgenstein)
có thể nói là một trong những
triết gia quan trọng nhất của trường
phái này. Tuy về cuối đời,
triết gia họ Vỹ có đổi lối
nhìn, nhận định vai trò của triết
học vuợt khỏi vai trò phân tích,
và triết học như là một cuộc
phản ảnh của thế giới, song
các đồ đệ của ông phát
triển những kỹ thuật, nhất là
môn luận lý [bao gồm tượng
trưng (symbol logic), hình thái (modal logic), và
hình thức (formal logic) cũng như luận
lý thực chính luận (logical positivism)]
và ngôn ngữ [nhất là ngôn
ngữ nguyên tử (linguistic atom, hay atomic
language)] đến một mức độ
tinh vi. Chính vì thế, tuy triết học
phân tích không đưa ra được
những tư tưởng cải đổi
thế giới, trường phái
này hiện làm mưa làm gió trong
các đại học tại Anh và Mỹ.
Nên triết học này tương đối
xa lạ với triết đông và
Việt Triết. Tuy thế, chúng ta không
được phép gạt bỏ, song phải
siêu việt triết học phân tích,
bằng cách áp dụng những kỹ
thuật tinh vi của triết học này để
tìm ra chân tính (truth) cũng như xác
thực tính (exactitude) của Việt triết.
2.11. Triết
Học là một môn khoa học xã hội,
nhắm đến một tương thông
tư tưởng
và nhằm giải quyết những hiểu
nhầm
Ngoài những trường
phái trên, chúng ta nhận thấy còn
có rất nhiều trường phái
khác như phái lịch sử, phái
Tân-Mã-Sỹ (Neo-Marxism), phái Kết-Cấu
(Structuralism), phái Chuyển-Thích hay Thông-Diễn
(Hermeneutics) và phái Hậu-Hiện-Ðại
(Post-modernism). Những phái này tương
đối xa lạ với triết đông.
Tuy thế ảnh hưởng của chúng
càng ngày càng lớn mạnh trong
các giảng đường đại
học tại Á Châu. Có những
đường lối triết học có
thể giúp ích cho chúng ta trong việc
nghiên cứu Việt triết như lý
thuyết chuyển thích, hay những phê
bình của một số triết gia thuộc
trường phái Tân Mã-Sỹ.
Cũng có những luận đề
rất đông phương thấy trong Hậu
Hiện-Ðại thuyết. Trong bài có
tính chất nhập môn này, chúng
tôi xin được phép tạm gác
lại một bên. Chỉ xin được
bàn thêm vài lời về triết
thuyết câu thông của ông Hà-Bác-Mã
(Jorgen Habermas), lý do tôi thấy trong lý
thuyết này có một số điểm
mà Việt triết đã từng
phát hiện. Một lý do khác là
lý thuyết của ông Hà-Bác-Mã
tổng hợp nhiều lý thuyết của
nhóm Tân Mã-Sỹ, triết học
chuyển thích và triết học phân
tích. Trong phần bàn về bản chất
của Việt Triết, chúng tôi sẽ
đi sâu hơn vào những chi tiết
của triết thuyết này.
Theo Hà-Bác-Mã, vấn
nạn chính yếu của con người
là sự bất khả trong câu thông
(communication) hay tương thông. Cái khó
khăn của tương thông phát sinh
từ sự việc:
1. hai chủ thể không
có những ngôn ngữ tương
đồng;
2. do sự khác biệt
hay tương khắc về ý-hướng,
trí hướng và tư lợi
của hai chủ thể;
3. do sự khác biệt
của môi trường cũng như điều
kiện ảnh hưởng tới sự
hình thành của con người sinh
vật và con người xã hội,
và do đó ảnh hưởng tới
lối tư duy của mọi người;
4. sự khác biệt
của phương pháp mà mỗi chủ
thể áp dụng. Ngay cả phương pháp
cũng bị ảnh hưởng của lối
sống của con người. Không cần
đi sâu vào chi tiết của lý
thuyết Hà-Bác-Mã, chúng ta đã
nhận ra một điểm, đó là
việc họ Hà nhấn mạnh đến
tính chất tương quan của tương
hộ chủ thể (Inter-Subject), chứ không
theo lối nhìn của nhóm duy lý, phân
biệt chủ thể và khách thể (subject-object),
và nhấn mạnh tới chủ thể,
hay lối nhìn nhị nguyên coi khách
thể như là một ngoại tại đối
lập với chủ thể (objecttum). Ðồng
thời, ông cũng tổng hợp
hai lối nhìn của duy vật và duy linh:
đối với ông cái lợi
ích (interest) đồng thời cũng
là tri hướng (intellectual interest), và
là chí hướng (emancipatory interest).
Do đó con người là một
con người toàn thể chứ không
chỉ duy vật hay duy tâm, hay duy linh. Những
lối nhìn này rất tương đồng
với lối nhìn của Việt Triết
về con người và xã hội,
con người và Thượng Ðế,
và con người với con người
(Thiên, Ðịa, Nhân).
Trong phần tới, khi bàn
về bản chất của Việt
Triết, chúng tôi sẽ trở
lại vấn đề tương quan giữa
con người với con người
(đạo nhân), con người với
vạn vật (đạo vật), và con người
với Thượng Ðế (Thiên
Ðạo).