Tiểu sử Đại thi hào Nguyễn Du
TIỂU SỬ ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, sinh ngày mồng 3 tháng 1 năm (1766) tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu – Thăng Long (Hà Nội). Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Đó là một gia đình có truyền thống yêu chuộng văn chương và nghệ thuật.
Cha là ông là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tức Thượng thư bộ hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần (1740 – 1778).
Năm Quý Mão (1783) Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Tú tài). Ông lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên.
Mùa Đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng Tri Phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng ( nay thuộc Hà Nội ). Năm 1803, Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long. Năm 1805 Ất Sửu ông được thăng Đông Các Đại Học Sĩ (hàm Ngũ phẩm), tức Du Đức hầu và vào nhận chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807 được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 ông xin về quê nghỉ. Năm 1809 ông được bổ chức Cai bạ ( hàm Tứ phẩm ) ở Quảng Bình. Năm Quý Dậu 1813 ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam phẩm). Năm Bính Tý (1816).
Năm 1820 (Canh Thìn) Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong, nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820) thọ 54 tuổi. Mộ ông nguyên táng tại làng An Ninh, huyện Hương Trà ( gần sau chùa Thiện Mụ). Năm Giáp Thân (1824), người ta cải táng ông và đưa về quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.
Năm 1965 ông được Hội đồng hòa bình thế giới của UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới và quyết định kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của ông.
Nguyễn Du đã để lại một di sản văn chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ cổ điển. Từ đó ông đáng được suy tôn danh hiệu Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới.