THUY KHUE
Thụy Khuê
Trần Dần,
mỹ học khổ đau
Trần Dần mất ngày 17 tháng giêng năm 1997. Trong 40 năm, sau
Nhân Văn, Trần Dần đã chỉ thấy những hòm bản thảo của mình: 2/3 bị tiêu
tán, mục nát, 1/3 bị kết án chung thân trong trạng thái nằm. Vậy mà vẫn
viết. Viết đều. Bởi ông cho rằng viết hay ghi là phương pháp duy nhất
nói chuyện với mình khi không thể nói được với ai. Từ 1958, “ghi trở nên
một hình phạt”, người thanh niên 32 tuổi ấy đã bị “đòn ngấm quá cuống tim
rồi”.
Tác phẩm chịu chung số phận với con người, phần lớn đều chưa
được in ra: gần 30 tập thơ, 3 cuốn tiểu thuyết, và không biết bao nhiêu bản thảo
bị mối mọt.
Trần Dần sinh ngày 16 tháng 7 năm Bính Dần, tức ngày 23 tháng
8 năm 1926, trong một gia đình giàu có ở Nam Ðịnh. Ðậu bằng thành chung rồi lên
Hà Nội học đến tú tài. Trần Dần là bạn thân từ nhỏ với Vũ Hoàng Ðịch, em ruột Vũ
Hoàng Chương. Trong không khí văn nghệ gia đình và bè bạn, ngay từ 1944, sau khi
xong trung học, Trần Dần, đã cùng Vũ Hoàng Ðịch, Trần Mai Châu, Ðinh Hùng…
nghĩ đến việc cách tân Thơ Mới, chủ trương nhóm Dạ Ðài, viết “Bản tuyên ngôn
tượng trưng” ký tên ba người Trần Dần, Trần Mai Châu và Vũ Hoàng Địch, in
trên giai phẩm Dạ Ðài số 1, ra ngày 16/11/1946. Ngoài thơ, Dạ Ðài còn có tiểu
thuyết, truyện ngắn và bình luận. Vừa ra được số đầu, mới lên khuôn số thứ nhì
thì chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, Trần Dần tham gia kháng chiến.
Đạo diễn Trần Vũ nhớ lại: ở Sơn La, năm 1946, Trần Dần làm
công tác tuyên truyền cùng với Vũ Khiêu và Vũ Hoàng Ðịch. 1948, khi thành lập
khu 14 ở Tây Bắc, Trần Dần cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Ðịch lên Tây Bắc. Một thời
gian sau, khu 14 bị giải thể. Trần Dần tham gia quân đội, nhận công tác địch vận
của trung đoàn Sơn La từ 1948 đến 1950.
Hồ Phương kể lại: “Ở nhóm văn nghệ Tây Bắc có Trần Thứ
(nay là Trần Vũ), Trần Dần và Hoài Niệm… Tờ Sông Ðà của nhóm này cũng
là một tờ báo được trình bày khá đẹp, nghiêng về sáng tác thơ văn. Hồi ấy Trần
Dần hay làm thơ leo thang, bài thơ thường được trình bày khá kiểu cách. Dòng thì
in chữ nhỏ, dòng lại in chữ to, thiên về hạng theo mốt.” (trích Cách mạng
kháng chiến và đời sống văn học, tập II, nxb Tác Phẩm Mới, 1987,
trang 140)
Sau kỳ học tập chính trị năm 1951, Trần Dần về Trung Ương,
nhận công tác ở Cục Quân Huấn. Cuối năm 1953, chiến đấu ở mặt trận Ðiện Biên
Phủ, cùng đội ngũ với Ðỗ Nhuận và Tô Ngọc Vân, Trần Dần viết tiểu thuyết
Người người lớp lớp.
Năm 1954, được cử đi Trung quốc để viết bản dẫn giải bằng
tiếng Việt cho phim Chiến thắng Ðiện Biên Phủ. Ông không ghi gì về chuyến
đi này trong nhật ký.
Ðầu năm 1955, trong quân đội manh nha sự phản đối đường lối
văn hóa văn nghệ của Ðảng: Trần Dần, Tử Phác, cùng với sự hỗ trợ của Lê Ðạt,
Hoàng Cầm, một mặt lên tiếng phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, một
mặt yêu cầu hạn chế sự can thiệp của Bộ Chính Trị vào lãnh vực văn hóa văn nghệ.
Phong trào tiếp diễn với Giai Phẩm Mùa Xuân, xuất hiện tháng 3 năm 1956,
đăng bài Nhất định thắng của Trần Dần. Trần Dần bị bắt, cứa cổ tự tử,
nhưng không chết. Phong trào tiếp tục đến tháng giêng năm 1958 thì bị dập tắt
hẳn.
Nhưng những chôn vùi thường đưa đến những hậu quả bất ngờ:
như hỏa sơn Vésuve thình lình chôn sống Pompéi trong một trận mưa tro đá. Nhưng
1700 năm sau, người ta đào lại các lớp địa tầng, “phục hồi” những xác người hóa
thạch. Chính những xác hóa thạch đó đã cho biết họ bị ngọn lửa Vésuve bức
tử như thế nào. Tại sao mà chết? Xác người hoá thạch ở Pompéi, 1700 năm sau, đã
thuật lại cho hậu thế lịch sử cái chết của mình. Vésuve đâu có lường trước hậu
quả khi nhúng tay vào tội ác? Vésuve đâu có ngờ rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào,
con người cũng tìm đủ mọi cách để “phục hồi” sự thật? Vésuve đâu nghĩ đến sự
phản bội của thời gian: đáng lẽ những sự thật đã bị chà đạp, bóp méo, chôn vùi
đến hàng ngàn năm phải tiêu tan, tro bụi, nào ngờ, chúng lại được chính thời
gian đồng lõa với con người, tìm cách soi tỏ sự thật như một thỏa thuận nhân văn
ngấm ngầm giữa quá khứ và hiện tại, giữa bây giờ và hậu thế.
Về Nhân Văn Giai Phẩm, có những sự việc đã bị chôn sống,
tưởng rồi sẽ tan trong lòng đất. Có những sự thực đã bị bóp méo đến độ dị dạng.
Trong hơn nửa thế kỷ, người ta đã quen sống với những quái thai dị đạng đó:
những xuyên tạc, bôi nhọ được đề cao như những chân lý. Ngờ đâu, những con
chữ trong hòm lại có ngày đứng dậy, thuật lại truyện mình. Tập
Trần Dần ghi 1954-1960 là một trong những tư liệu hòm, tự khai, tự quật.
Do nhà xuất bản Văn Nghệ tại California in năm 2001. Tác phẩm
chìa ra những dòng chữ viết đầu tiên, để lấp những trang còn trắng
về một thời kỳ văn học sử, còn chưa được biết, còn chưa được viết.
Trần Dần ghi,
tức là Trần Dần viết nhật ký cho mình, ghi lại những ý nghĩ, sự kiện, đột
hiện ra trong óc. Những điều mắt thấy tai nghe. Những câu chuyện bạn bè kể lại.
Tất cả bộ mặt hàng ngày của đời sống “thời ấy”, vui có, buồn có, bực tức có,
phẫn nộ có, lạc quan có.
Sự ghi ấy đến với chúng ta như thế
nào, sau nửa thế kỷ? Nó cho biết một phần sự thật về thế giới đã bị chôn vùi, dĩ
nhiên là dưới con mắt chủ quan của người ghi. Một sự chủ quan đầy ý nghĩa vì đây
là những hàng nhật ký chứ không phải hồi ký. Đây là những ghi chép
hàng ngày, tại chỗ, còn nóng hổi, chỉ để giúp trí nhớ của riêng mình, không có
hậu ý cho người khác đọc. Mà dù có muốn người khác đọc, thì cũng không chắc có
một ngày người ta sẽ đọc. Bị xếp trong hòm, nó còn mang tính cách trăn trối,
trăn trối với mình, trăn trối với người, trăn trối với nghệ thuật. Vì không cốt
yếu viết cho “người khác” đọc, cho nên nó không cần phải “làm đẹp” lên hoặc “làm
xấu” đi, không phải giả đò tự phê phán mình để tỏ niềm trung thực, như một số
hồi ký viết về thời kỳ này, cốt viết và in cho người khác đọc. Bởi thế,
khi đọc Trần Dần ghi, tức là chúng ta đã xâm phạm vào đời tư cá
nhân Trần Dần, vào chỗ thầm kín nhất của con người: vào những ý nghĩ riêng tư,
nhiều khi thái quá, vào những sự thật trần truồng, nhiều khi không khoan nhượng,
vào những sai lầm có thể có, đối với bất cứ ai. Đó là con dao hai lưỡi, cũng là
lợi khí của văn học nằm trong tinh thần sáng tác của Trần Dần.
Tập Trần Dần ghi 1954-1960 gồm ba
phần. Phần đầu là những suy nghĩ về sáng tạo. Phần thứ nhì chụp lại thời đấu tố.
Phần thứ ba nghiêng về chân dung và cuộc sống con người trong ba năm kỷ luật.
Phần thứ nhất, ngắn nhưng sắc sảo, bộc lộ
quan niệm thơ nói riêng và sáng tác nói chung của Trần Dần. Tuy viết từ thời
trẻ, nhưng đã khái quát những suy nghĩ sâu sắc của một đời người, đời thơ, bao
trùm những ý nghĩa triết lý và nghiệm sinh. Ðó là một lối tuyên ngôn nghệ thuật
phát xuất tự đáy lòng, với những trăn trở, vừa muốn tìm hiểu, vừa để xác định
một trật tự cho riêng mình, nhưng chưa vỡ lẽ cái mình muốn xác định ấy là gì.
Trần Dần viết: “… những hình ảnh thơ nóng bỏng, cháy như lửa, một hình ảnh
ánh lên nhiều hình ảnh, hình ảnh nọ chống đối hình ảnh kia, hòa hợp với nhau,
lôi kéo nhau trong một điệu nhảy ma quỷ… Ðúng là: một cuộc sống chaotique,
nhưng một cái chaos có harmonie của nó. Một điệu danse macabre
có cái thần tiên của nó. Một cái hỗn độn có cái trật tự của nó. Và cái
harmonie, cái thần tiên, cái trật tự đó là tùy theo tiêu chuẩn, tôi cho là: ý
thích của tôi. Mà ý thích của tôi là theo tiêu chuẩn tối cao! Ðó là sơ lược cái
mơ ước ngày tôi 18, 19 tuổi.” (trang 35)
Ðó là lời “tuyên ngôn” thơ, rất “hỗn độn”,
mơ hồ, nhưng lại rất sát với thơ. Nếu so với những lời văn hoa Trần Dần viết
trong bản “Tuyên ngôn tượng trưng” của nhóm Ðạ Ðài mười năm trước, nào những
“Chúng tôi -một đoàn thất thổ- đã đầu thai nhằm lúc sao mờ” (rất Vũ Hoàng
Chương), nào những “Chúng tôi đã nhìn lên Tinh đẩu và đã nhìn xuống Thế nhân”,
nào những “Sụp đổ: lâu đài phong nguyệt; và mai một: ý tứ những thi
nhân mò ánh trăng mà thác”… thì đúng là trong hoàn cảnh nào, các tuyên
ngôn cũng vô dụng. Tuyên ngôn Dạ Ðài trịnh trọng, khuôn sáo, không nói được gì,
so với mấy trang đầu tập Trần Dần ghi 1954-1960.
Nói với mình, Trần Dần bỏ hẳn lối viết
rườm rà, hoa mỹ, để hướng về chữ, chỉ có chữ, trần trụi chữ, sâu và thực.
Phê bình
văn, thơ kháng chiến
Câu hỏi đầu tiên đến với người sáng tác
là: viết như thế nào? Trần Dần không thoát ra ngoài thông lệ. Lúc ấy đang đánh
nhau, có đòi hỏi phải viết về chiến tranh. Người ta bảo phải viết như thế này,
thế kia. Còn anh? Là nhà văn, anh nghĩ gì? Anh viết như thế nào?
Trần Dần ghi:
“Chúng ta thấy chúng ta
vào khói ra lửa, sinh tử không sờn, chúng ta thấy chúng ta hành động ghê gớm
lắm. Nhưng có điều buồn là chúng ta không thấy chúng ta! […]
Chiến tranh rèn luyện. Chúng ta được
nhiều điều. Nhưng […] tôi nói nó là bộ xương. Chiến tranh làm chúng ta rắn
xương rắn thịt, làm cho tâm hồn chúng ta có hình cốt, có cái khung rất tốt rất
bền. Nhung bạn đừng lầm bảo rằng bộ xương đó là người, hình cốt và và cái khung
là tâm hồn rồi đó. Nói vậy là một sự dối trá […]
Cho nên bạn nói Chiến tranh là rèn
luyện;- bạn cần nghĩ thêm Hoà Bình cũng rèn luyện, mà còn rèn luyện hơn là chiến
tranh nữa […]
Hoà Bình rồi, người ta mới có thể biết
trong chiến tranh người ta đã mất mát và thu hoạch được những gì. […]
Tôi nói rằng chúng ta mất nhiều hơn. Tại vì tôi nghĩ tới chiến tranh và tội ác
của nó. Và tại vì tôi so sánh những cái thu hoạch 9 năm chiến tranh vừa qua với
những cái thu hoạch lớn hơn gấp bội nếu 9 năm qua là 9 năm kiến thiết Hoà Bình.
[…] Vì thế tôi muốn viết nhiều, muốn viết những cái tôi chưa dám viết. Và tôi
muốn viết không có kiểm duyệt. […]
Tôi vừa viết xong cuốn “Người người lớp
lớp”. Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi đã chán rồi. Tại vì
rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi thấy ít sự
thực của bản thân trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh và chưa phải là
tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng
mới làm về chiến tranh: “Anh đã thấy” (mes douleurs) trên dưới có 6 trang! Vài
trang thơ này tôi còn thấy chiến tranh nhiều hơn, và thấy tôi nhiều hơn 300
trang “Người người lớp lớp”.
[…] Tôi muốn tả những người chiến sĩ. Người rất già
người rất trẻ. Người bần cố và người con địa chủ. Người con tư sản và người công
nhân. Người học sinh và người không biết chữ. Người đã làm sư và người đi ăn
cướp. Người đi buôn và người đã bị buôn. Người đã lừa lọc và người đã bị lừa
lọc. […] Người anh hùng và người dút dát. Người lấy súng bắn địch và người lại
lấy súng tự thương. […] Người thuần, người ngổ ngáo. Người chỉ biết phục tùng,
người hay cãi bướng. Và đa số là ngại học tập ,ngại nghe đả thông. Ngại nghe cán
bộ nói nhiều. Ngại bị “nắm tư tưởng”. Nắm, nắm con cặc.
[…]
Tôi nghe người ta nói đừng viết cuộc sống telle qu’elle
est (chú thích: cuộc sống như nó đang diễn ra) mà phải viết la vie
telle qu’elle doit être! (cuộc sống như nó phải được diễn ra) –
Tôi
lại hiểu rằng: viết cuộc sống telle qu’elle est tức là viết cuộc sống
telle qu’elle doit être.- Tôi hiểu rằng không có gì đẹp hơn, không có gì cao
cả hơn, không có gì cộng sản hơn là: Sự Thực không tô điểm, Sự Thực trần truồng.
Và cũng không có gì xấu hơn, không có gì yếu ớt hơn, phi cộng sản hơn là Sự Thực
tô điểm, Sự Thực mặc áo hồng, áo xanh, áo hoa. Tôi nói rằng, dù áo hoa đó thích
hợp, dù sự tô điểm đó là tô theo phương hướng thực của cuộc sống thực, thì cái
áo đó và sự tô điểm đó vẫn cứ là không đáng tán thành. Cuộc sống cởi truồng, nó
có ý nghĩa như những sự tô điểm và những bộ áo đẹp và lý tưởng nhất. Màu da của
cuộc đời toute nue, đó là tất cả các bộ áo của trần gian rồi[…]
Chính vì vậy tôi muốn viết chiến tranh telle qu’elle
est. 10 cây số máu. Xương phơi đầy đường. Người đáng sống thì chết.
Kẻ đáng chết thì sống mãi. Tôi tưởng rằng, nếu mà nói giáo dục, thì không gì
giáo dục hơn là sự thực ở trần. Chiến tranh cởi truồng là có thể giáo dục Chiến
tranh, lại giáo dục cả Hòa Bình […]
Cho nên tôi rất muốn viết về chiến tranh. Viết thật trần
truồng. Không gì lớn hơn Sự Thực. Vì vậy cho nên không bao giờ tôi viết được Sự
Thực[…] Nhưng mà cũng không bao giờ tôi lại không muốn tả cho đúng Sự
Thực.[…]” (trích những dòng ghi từ 16/9 đến 1/10/54, trang 43-48).
Lời ghi trần trụi trên đây là một tuyên ngôn cởi truồng
về mục đích của văn học, về nhân cách của nhà văn. Suốt cuộc đời, Trần Dần đã
tôn trọng nó: ông đã ghi lại cuộc sống của mình, của những người xung quanh,
bằng trái tim, một trái tim dù bị dìm dẫm, bằm vặp, nhầu nát nhưng vẫn giữ tròn
nhiệm vụ lọc máu để nuôi sống con người.
24/12/1954, đêm Noël, Trần Dần ghi:
“Bước quanh bờ Hồ. Trời tôi tối. Còn vẳng tiếng hát micro
nhà thờ buông trầm trầm. Hai thằng đi. Tôi và Lê Ðạt. Buồn quá. Ðây là những lúc
người tôi hẫng lắm. Rỗng lắm. Tôi còn đầy dư vị những câu chuyện trao đổi đêm
nay về chính sách văn nghệ. Dư vị chua, đắng, nhạt thếch.
Xem bài thơ “Ðại hội văn công” của Dương Chi trên báo Thời
Mới. Tôi nhớ lại nhiều bài thơ kháng chiến của anh em kháng chiến. Ý tứ, điệu
nhịp. Tôi có ý nghĩ so sánh. Thấy nó na ná nhau quá. Thử đào sâu hơn, tôi thấy
phương pháp thơ của Dương Chi không khác là bao nhiêu với phương pháp thơ của
nhiều anh em kháng chiến(!) Tôi còn muốn nói là giống nhau nữa. Phương pháp thơ
gì? Tôi cho rằng phương pháp thơ đó, căn bản có mấy điểm:
1) một nội dung chính trị chưa thấm, chưa nhuyễn tới mức
không còn là chính trị đơn thuần nữa;
2) trộn vào nội dung chính trị đó, một vài cái gì ươn ướt
một tí! Ví dụ “đại hội văn công” thì trộn vào:tình đất nước, xuôi ngược Mán,
Thổ, Mường… Nam Bắc… bốn phương về đây tụ hội. Và một vài cái ánh đèn… con
mắt trái tim rung v.v… […]
3) đem cái đó đặt thành vần điệu. Kỹ thuật là xem các thể
thơ 4, 5, 6, 7 chữ. Thi thoảng hạ một câu lục bát nghe có vẻ mê ly. Tôi thường
nghĩ đó là một ngón “thơ chim gái”. Phụ nữ nghe phải sít soa. Và cả quần chúng
khi đó, lúc đó, cũng phải rít lên. Nhưng về sau không còn ai nhớ nó nữa.
Vì vậy tôi coi phương pháp thơ Dương Chi trong bài đó
giống phương pháp của anh em kháng chiến. Theo ý tôi là một phương pháp thơ rất
hỏng. Không có gì đáng gọi là cách mạng cả. Tôi muốn nói: “Các anh đừng có lên
mặt kháng chiến. Đừng vênh váo mình tiến bộ. Đừng khinh anh em trong Hà Nội lạc
hậu! Về cơ bản, các anh không hơn gì anh em Hà Nội đâu. […] Ta chưa có cách
mạng thi ca”.
Tôi nhớ một hôm tôi đọc chơi chơi ví dụ: “hồn lâng lâng mơ
máu giặc nồng say”. Nhiều anh em cười. Tôi đố: thơ ở đâu nào? Có anh đoán :- Một
tờ báo Hà Nội nào hẳn? Tôi nói thực: Ðó là tập “Tiếng hát” của nhà xuất bản Quân
Ðội Nhân Dân. Thơ kháng chiến đấy!” (trang 65- 66).
Trần Dần ghi những điều mà mọi người thấy,
nhưng không dám nói ra: Một người chuyên trị thơ kháng chiến như Tố Hữu, nếu ông
chịu khó đọc lại thơ ông, thì ông sẽ thấy Trần Dần nói đúng, thơ ông đầy những
câu văn hoa ngớ ngẩn, lẩy Kiều một tý, ngược xuôi Mán Mường một tý, ươn ướt một
tý, ca dao một tý, rất đúng ngữ điệu “chim gái”:
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. (trích Việt
bắc)
Bài Bầm ơi, vào loại rất hay của Tố Hữu cũng là một
bài lẩy ca dao:
Bầm ra ruộng cấy bầm run,
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu.
Cho nên khi bình thơ Tố Hữu, Trần Dần đã phê một câu chí lý:
“Chỗ nào hay thì lại là lặp lại Nguyễn Du, Tản Ðà, ca dao… Tố Hữu chưa đem
tới một cách nhìn mới mẻ gì.”
Nhưng cái họa của thơ kháng chiến là không chỉ có Tố Hữu làm
thơ như thế mà hầu hết các nhà thơ nổi tiếng, khi xung phong yêu nước, họ đều
nặn ra những câu thơ ngớ ngẩn như vậy. Điều này rất khác với các nhạc sĩ. Tôi
nhớ một hôm, đi chơi xa với nhà thơ Lê Đạt, trong xe, tôi để cassette nhạc kháng
chiến của Phạm Duy. Không nhớ rõ là khi nghe đến bài nào, Quê nghèo,
Về miền Trung hay Bà mẹ Gio Linh… Lê Đạt buột miệng: “Phải yêu
nước như “nó” mới làm được nhạc như thế”. Nguyễn Huy Thiệp khi nghe Thái
Thanh hát Bà mẹ Gio Linh cũng bảo: “Nghe nổi cả da gà!”. Câu nói
của Lê Đạt, Nguyễn Huy Thiệp làm tôi suy nghĩ nhiều về lòng yêu nước, về thơ và
nhạc kháng chiến: quả là thơ kháng chiến “yếu” hơn nhạc kháng chiến rất nhiều.
Có bài thơ kháng chiến nào làm cho chúng ta “nổi da gà” như Bà mẹ Gio Linh.
Tại sao? Vì các nhà thơ không có “gien” yêu nước? Hay vì làm thơ yêu nước không
dễ, có yêu nước thật, may ra thơ mới hay. Có rút ruột mình ra, lên đồng với chữ
như Hoàng Cầm, mới làm được Bên kia sông Đuống. Có mất mát như Hữu Loan,
mới làm được Màu tím hoa sim? Còn tất cả những “giả đò”, đều ngớ ngẩn và
buồn cười, nhất là giả đò yêu nước. Chúng ta thử đọc một bài thơ yêu nước của
Xuân Diệu:
Sớm nay xa cách làng Còng
Bước đi một bước trong lòng mến yêu
Làng Còng vất vả, gieo neo
Tô đong, thóc rẽ, bao nhiêu căm thù.
Nông dân lao động bốn mùa
Trồng bông, bón mía, lại vừa tỉa ngô.
Mùa thường ngập lụt chẳng no
Chiêm thời thỉnh thoảng mất khô một kỳ.
Tháng ba hái củi nặng nề
Tháng mười kéo một đêm khuya thức ròng.
(trích bài “Tặng làng Còng”)
Màu mè hơn Tố Hữu, Xuân Diệu tìm cách trộn
trạo hổ lốn các yếu tố ca dao, lao động, nông dân, canh tác… vào cho đủ lệ bộ
mũ mã cân đai, có thể rất hợp khẩu vị lãnh đạo, nhưng không làm rung động mảy
may “lòng người “. Bài này thuộc loại tạm được, nhưng Xuân Diệu còn bao bài thơ
khẩu hiệu không thể nào đọc được, ví dụ:
Người gánh gánh của chúng tôi: là Đảng
Người gánh gánh với chúng ta: là Đảng
Người gánh ta, ta gánh Người: là Đảng
Người gánh đất, Người gánh trời: là Đảng.
(trích bài “Gánh”)
Tóm lại, hầu như không một nhà thơ nào, thời ấy, theo kháng
chiến, (tự nguyện hay bắt buộc) làm thơ ca tụng, mà không nặn ra những bài văn
vần, nửa vè, nửa khẩu hiệu, tạo nên một vũ trụ quái thai thơ. Vũ Hoàng Chương
cũng có những câu:
Chen tiếng hoan hô này khẩu hiệu
Muôn năm chủ tịch Hồ Chí Minh.
Muôn năm người lính già tiêu biểu
Vì giang sơn quyết bỏ gia đình
(trích bài “Nhớ về Hà Nội vàng son”)
Đó là bi kịch chung của thơ văn kháng chiến mà Trần Dần đã cô
đọng lại trong vài hàng phê bình thẳng thắn và xác thực.
Nhưng điều tệ hại là chính cái sườn nửa vè, nửa khẩu hiệu ấy
lại trở thành mẫu mực cho thơ văn suốt một thời dài sau khi kháng chiến chấm
dứt, khi đã đánh “tuyệt nọc” Nhân Văn.
Mỹ học khổ đau
Phần cốt lõi trong nhật ký Trần Dần là thân phận con người.
Con người trong cải cách ruộng đất và đấu tố, con người sau Nhân Văn. Trần Dần
có đấy. Trần Dần ghi. Trước đây, chúng ta đã được đọc nhiều cuốn tiểu thuyết hay
viết về thời kỳ cải cách ruộng đất. Nhiều cách viết về thân phận con
người, mô tả những khổ, đau, sống, chết… trong cải cách ruộng đất. Trần Dần
không viết về cải cách ruộng đất, cũng không viết về tố khổ, mà
ông ghi, ông chụp hình tố khổ bằng chữ. Nghệ thuật của ông
nằm ở chỗ: không làm nghệ thuật, mà chụp nó. Như thể vô tình ông đã tạo ra cái
mà ông gọi là Esthétique de la douleur.
Trong lúc nói chuyện về nghệ thuật với Lê Đạt và Đặng Đình
Hưng, có lần Trần Dần bảo: “cái esthétique của tôi, nó là esthétique
de la douleur” (mỹ học khổ đau) (trang 345). Nhưng ông có ý phê bình cái mỹ
học khổ đau ấy là của thế kỷ XIX. Muốn biết cái “mỹ học khổ đau” ấy như thế nào,
thì cứ đọc những hàng Trần Dần ghi. Ông ghi như thế nào? Ghi ngắn, gọn,
những điều chính yếu. Bỏ hết những chữ thừa, tác giả xóa mình sau ống kính chữ.
Chỉ có chữ. Vắn tắt như tốc ký. Chỉ có cách ấy mới lọc được nước cốt của
nỗi đau.
Lối viết ấy có thể xem như một cách chắt hiện thực, lọc nước
cốt các loại hiện thực, để chỉ lấy phần cô đọng nhất. Ðó là hiện thực Trần Dần.
Ðó là mỹ học khổ đau.
“Thụ chém xong, Hoành, Sang nhảy vào đè ông Tuân xuống,
thọc con dao nhọn vào vết chém đâm sâu vào thái dương, ông Tuân ọc ọc rồi chết.
Hoành, Sang khiêng xuống bếp, treo cổ. Hoành chạy đi. Sang chạy ra cản nhân dân,
xem giấy không cho vào”. (trang 118)
Những khuôn mặt, những tình huống, những cảnh, những lời,
trổi lên qua vài nét phác, đôi khi là khuôn mặt địa chủ, đôi khi là khuôn mặt
“nhân dân”… đôi khi cả một khung cảnh. Ðôi khi chẳng có gì cả, trần trụi hai
ba chữ, cụt lủn, trống không, như những hàng ghi đầu năm 56:
1/1 Thẩm tra chỗ dựa.
Tối họp: Tội ác địa chủ. Bảo vệ đường sắt.
3/1 Nhà Thu.
Tối, trấn áp địa chủ. Họp du kích trao đổi vũ khí. Họp
thanh niên, thiếu nhi.
8/1 Ðiểm tố khổ Nông Hội.
9/1 Nhà Thu.
Thông tin kẻ khẩu hiệu: Có khổ tố khổ. Ðánh đổ địa chủ
cường hào đại gian đại ác. Hoan nghênh đại hội nhân dân. Sáng suốt chọn người
vào thẩm phán xã.
Tố khổ Nông Hội.
1/1 Nhà Thu.
Tối: Công thẩm Hoàn (Nguyễn văn Nga).
12/1 Sáng: đấu Hoàn.
(trang 167).
Lối tốc ký: sợ không viết ngay sẽ quên mất, hình ảnh sẽ biến
đi, bởi vậy phải ghi hoả tốc. Cảnh đấu Nguyễn Văn Nga được chụp khá đầy đủ, gồm
17 màn, có 17 nhân vật thay phiên nhau lên đàn đấu và đây là hai màn đầu, vẫn
lối tốc ký, vắn nhất, tắt nhất:
Đấu Nguyễn văn Nga
1. Anh Tụng lên.
– Mày mất thóc, em mày lấy, mày vu cho tao mày đánh tao.
– Nga, mày có đánh anh Tụng không?
– Không.
Ðả đảo…
– Mày có đánh không?
– Có.
Ðả đảo thái độ ngoan cố…
– Mày ngoảnh mặt lên đây. Khoanh tay lại. Bây giờ mày đã
nhận mày kể lại đi.
– Thưa quý tòa con mất thóc về hỏi, chả nhẽ ở nhà mất còn có
ai, anh Tụng…
– Anh với mày à?
– Ông Tụng, con hỏi ông Tụng, xong có đánh.
– Nga! Ðánh thế nào? Hỏi! Cho phép mày quay về ông bà nhân
dân mà nói về việc đánh anh Tụng. Phải thưa ông bà.
– Thưa ông bà nhân dân, con mất thóc, con đánh anh Tụng à
ông Tụng. Con trói vào cột.
– Mày có treo anh Tụng lên không?
– Con có treo ông Tụng lên ạ…
Ðả đảo…
– Nga! Hỏi! Về sau thóc ai lấy?
– Con không biết ạ…
Kết luận:- Chúng ta nhân dân thấy bộ mặt ngoan cố tên địa
chủ. Nó đã nhận là thóc con cháu nó lấy mà nó đổ cho anh Tụng, nó đánh.
2. Ông Sử
– Mày đánh tao nát cả người cả ngợm ra.
– Con chỉ đánh nát người thôi ạ. Không đánh vào ngợm ạ.
– Tao đói quá tao đi bẻ mấy bắp ngô. Tao lấy của nhân dân
chứ có lấy của nhà mày đâu? Sao mày lột quần tao ra, chắp 10 roi đánh!
– Mày có đánh ông Sử không?
– Có.
– Mày đánh bằng gì?
– Con đánh bằng roi tre ạ. Ông ấy ăn cắp ngô, con đi tuần
thì con đánh ông ấy chảy máu đít. (trang 135-136).
Màn đấu Nguyễn Văn Nga tiếp tục với các nhân vật khác:
Em anh Niệm, Chị Vinh, Bà Chính, Ông Thìn, ông Dăm lần lượt lên đàn tố.
…
Ở trang 172, Trần Dần ghi:
Viết 5 câu chuyện tình, không được in, đốt đi 2, còn 3.
[…]
Em ạ, chính sách quản lý hộ khẩu là để đánh địch, nhưng em
coi chừng, nó lại đánh vào tình yêu của chúng ta […]
– Ðạo lý không có tương lai.
– Viết quyển “Ðời làm lính”, xong lại đốt đi. Vì nó
đụng đến nhiều thứ quá.
– Nhật ký cho D. “Tác phẩm xuất bản cho một người.”
Hiện thực Trần Dần là một hiện thực tốc ký của mỹ học khổ
đau. Không bình. Không luận. Để sự thực trần truồng nói. Là “tác phẩm viết cho
một người”, “xuất bản cho một người”, tác giả lọc ra những nét độc đáo nhất của
một chân dung, một sự kiện, một hiện tượng để ghi lên giấy, tạc vào óc người,
người duy nhất viết và đọc: Trần Dần.
Mỗi hiện tượng, mỗi tình huống hay chân dung phác ra, bằng
vài câu, vài dòng. Kẻ đọc “lén”-như chúng ta ngày nay- nếu giầu tưởng tượng, có
thể xây dựng nên một tác phẩm văn học. Trần Dần tạo ra nguyên liệu, trong trạng
thái thô nhám, ròng, như vàng ròng, chưa pha tạp, chế biến, và mặc “ta” xoay sở:
Chị Chuột chửa hoang.
6 tháng bụng to rồi. Làng mới đem ra
điếm cho tuần gác, cùm, trói. Nuôi cho ăn cho đẻ xong xuôi. Trói hai ngón tay,
hai ngón chân, lấy xe điếu lăn chân, rứt lông cho đau. Tra hỏi: chửa với ai. Chị
Chuột khai chửa với phó Riếm.
Vào bắt bò nhà phó Riếm. Phó Riếm
không chịu, xin thử máu. Bát nước lã: Giọt máu phó Riếm với giọt máu đứa bé
không quyện vào nhau. Vậy là không phải.
Lại tra, lăn xe điếu. Chuột khai ngủ
với Bạch.
Bạch đẹp trai, đàn sáo. Vợ cũng đẹp.
Bạch nhận. Làng ăn vạ. Bắt bò, 2 lợn, đong thóc, cả làng ăn. Sạt nghiệp.
(trang 139).
Với “vụ việc” chị Chuột như vậy, “ta” có
thể đọc như thế nào? Điều tra những gì nằm ngoài các con chữ, là việc của ta. Và
“ta” cũng có thể dựng một truyện ngắn, như thể tác giả hào phóng muốn cung cấp
những chất liệu đầu tiên cho ai muốn dựng nên một tác phẩm văn học. Cách viết
gọi óc tưởng tượng của con người, nhưng rất có thể cũng là cách kêu cứu SOS,
ngắn gọn, của một mớ chữ đang bị chôn sống trong hòm: Chuyện Nhân Văn, chuyện
cải tạo sau Nhân Văn, cũng nằm trong lối tốc ký ấy:
“9/9
[…]Chiều. Nắng càng tấn công gay gắt.
Hàng tấn bom Napalm ánh sáng thiêu đốt đất cát nóng bỏng. 2, 3 giờ, gió máy xem
chừng yếu thế, đến chiều thì tắt gió hoàn toàn! Suốt cả cái tháng bẩy này, mùa
hạ mùa thu giằng co nhau. Sống trong cái thế cầm cự ấy, vạn vật mệt nhoài… Sao
mà tôi ghét cái ách thống trị gắt gao của mùa hè như vậy?
– Nắng này, anh ra đào gốc, không chịu
nổi đâu! Nó hắt vào mặt, rát rạt! Anh Thuần bảo tôi… Thôi anh ở nhà(!)… Anh
xuống chuồng bò cào phân! Mát mà! Có được không?
[…]
Ðêm, tôi thiếp đi trong mộng ác. Tay
mưng, đau nhất là ở những chỗ đã thành chai mà lại mưng tái lại. Mọi bắp thịt
suốt đêm lọc acide, và chôn cất những tế bào
chết vì lao lực quá sức… Lục đục suốt đêm vậy trong toàn bộ xác thịt tôi.
[…]
10/9
[…] Gió khiếp quá. Hàng sư đoàn gió
bấc trèo qua núi lúc nào đổ xuống đồng cỏ. Suốt buổi sáng, mùa hè bị đánh tan
nát. Nắng bị gió may thổi mát đi, nguội lửa.
Gió tốc mái, rứt mấy lá gồi chuồng bò.
Cây cành bị túm tóc, vật vã kêu gào, gió vẫn không tha. Các tàu chuối bị tước xơ
ra. Có tàu rách mướp, trông hệt một con rết xanh khổng lồ, hàng nghìn chân xanh
ngọ ngoạy điên cuồng, cào trong không khí, cái đuôi nó bị giữ rịt ở thân, nó
lồng lộn ngang ngửa, không thoát […]
Các nón lá bị gió nó hất chụp mặt. Nó
kéo ra sau, quai nón xiết cổ như thừng thắt cổ! Bụi phả vào mắt chúng tôi, chưa
dụi xong, gió đã ném thêm. Bọn tôi đào gốc, đã nhọc, còn bị lũ gió may kia trêu
chọc. Nó đùa dai chứ… Có lúc tôi cuốc đất, mắt nhắm tịt, một anh mù làm việc.”
(đầu tháng 9, 1958, trang 334-335)
Tháng 12 năm 1959, Trần Dần thốt lên:
“Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ “Ðúng” mới nhiều máu làm sao.” Con người
nhất định thắng ấy, đã thua, đã hàng, chấp nhận ly khai những lý tưởng
ngày trước của mình.
10-12-59 Trần Dần ghi:
“Sớm mai tòa án xử Thụy An gián điệp và
Nguyễn Hữu Ðang phá hại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy gọi cho dự, có lẽ
vì không có vị trí gì ở đó. Không phải là nhân chứng, cũng không phải là đại
biểu của nhân dân…
Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã
có đứng với nhóm Ðang cầm đầu. Tôi đã ly khai với “lý tưởng” đó. Cả khi đứng ở
đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến
chỗ “Đúng” mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao nào nữa
không?
Đang đã nhìn thấy cái sai lớn của Đang
chưa?[…].
Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có
gió. Ðôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Ðang ra tòa cuối năm.
Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ôi! Con đường để đi tới
chỗ “Ðúng” mới nhiều máu làm sao!” (trang 376)
1958, “Ghi trở nên một hình phạt”.
Nhưng vẫn ghi. Cuốn sổ 1958 ghi lại con đường nhiều người muốn ngoi lên để đi
đến chỗ “Đúng”. Ai cũng muốn tìm một đường “máu” để thoát thân: biết đâu Đảng
chả đoái thương mà nghĩ lại? Phương tiện nào cũng tốt kể cả “khai”. Cả “tố”. Bao
nhiêu khuôn mặt đã bước trên con đường “nhiều máu “ấy. Trần Dần ghi. Bao nhiêu
khuôn mặt đã đạt được sự “Đúng ” ấy. Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã vo ve
sự “Đúng” ấy. Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã “Sai “. Trần Dần vẫn ghi. Cả
đúng lẫn sai đều lầm than, đều dần đi tới chỗ tha hóa. Họ tan tác cả. Chính
quyền đã thành công trong sự “giẻ rách hoá “con người, như lời Lê Đạt.
Ngày 16/4/1958, Trần Dần ghi:
“Hiện nay Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An,
Minh Ðức đã bị bắt, chẳng bao lâu sẽ ra tòa. Báo chí vẫn tiếp tục diệt đánh Nhân
Văn Bộ 6 Giai Phẩm Mùa Xuân
(tức là 6 người: Hoàng
Cầm, Văn Cao, Lê Ðạt, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác). Bộ 6 đã buông nhau ra. Bọn
Nhân Văn Giai Phẩm cũng ô rơ voa nhau hết […] Sỹ Ngọc đóng cửa, miễn tiếp
khách.
Bản thân tôi, do chỗ đã tự giác đình
bản tư tưởng thù địch (thứ tự giác kết quả của áp lực…) nên mọi mặt khác, tôi
cũng đình bản cả giao du, đình bản cả việc viết lách.
Có nên đi gặp những đồng chí lãnh đạo
để hỏi những việc cần phải làm không? Ði thì lại sợ bị hiểu lầm. Nhưng nếu ngồi
nhà, tiêu cực đợi, có khi còn bị hiểu lầm gấp bội. […]
Bọn Ðang – Minh Ðức – Thụy An thân thì
bị cầm tù, tội ác thì đem bêu đầu trên báo chí. Vai trò của bọn chúng trong các
vụ phá hoại 3 năm đang được vạch trần.
Phan Khôi thì đóng cửa, nằm khàn, không
đọc báo.
Trương Tửu, Trần Ðức Thảo làm gì?
Còn cả loại B chúng tôi hiện ra sao?
Làm gì?
Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt đang tiếp
tục kiểm thảo ở cơ quan, cùng với những Quang Dũng, Trần Lê Văn, v.v…
Chúng tôi đi sâu vào kiểm điểm sáng tác
hơn nữa. Kiểm điểm sáng tác cho sâu mới thật là khó sao! Cứ như phải rứt bỏ một
mảng thịt của mình.” (trích trang 244, 245)
“Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và
đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ […] Tôi vừa là một tội nhân, vừa
phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực
trong tôi và đám Nhân Văn.” (trang 260)
Phải nhận tội, phải cắt bỏ những mảng thịt
của mình, phải tự chửi rủa mình, phải tìm gặp lãnh đạo, phải tố cáo bạn bè để
xin một chút ơn huệ thừa, nhưng rồi cũng không ai thoát được guồng máy, không ai
tránh khỏi bị ninh rừ.
Thành công lớn nhất của guồng máy là đã
đánh vào những yếu tố thiêng liêng nhất của con người, đánh vào tình bạn, tình
người, đánh tan tác hết.
Những người “Nhân Văn” không chết, nhưng
họ bị rút máu, rút gân, rút dần sinh lực. Họ đều rời rã, đều muốn đầu hàng,
nhiều người đã đầu hàng. Họ muốn được lãnh đạo thương xót, họ muốn được lãnh đạo
đoái thương. Họ đã xuống đến đáy vực thẳm, họ chịu hết nổi. Họ sẵn sàng “chút
lòng trinh bạch từ nay xin chừa” nhưng người ta vẫn lạnh lùng quay đi. Người
ta vẫn không cho ngoi lên. Cái phận người nhỏ nhoi. Cái phận người Nhân Văn phải
đi vài sa lầy, phải lún xuống, phải chịu nhận cái thời không nhân văn của
dân tộc mình. Câm và điếc. Như là đã chết. Và điều đó chỉ có mỹ học khổ đau của
Trần Dần mới viết nên được.
Đi! Đây Việt Bắc: thơ kháng
chiến Trần Dần
Bài thơ
Việt Bắc do nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 1990 là tập thơ đầu tiên được
in của Trần Dần sau thời Nhân Văn Giai Phẩm. Tên gốc của tập thơ là Ði! Ðây
Việt Bắc! một trường ca sáng tác năm 1957, gồm 13 chương mà chương thứ 13 là
bài Hãy đi mãi đã được đăng trên báo Văn số 28 ra ngày 15/11/1957. Ở lần
xuất bản năm 1990, bài Hãy đi mãi vẫn bị loại bỏ và tập thơ được đổi tên
là Bài thơ Việt Bắc.
Bài thơ toát ra hùng khí của một Trần Dần
chiến sĩ. Kháng chiến “trần truồng”: Ðứng và Ði. Mạch thơ chảy như nước, từ
những chữ đầu tiên:
Ðây!
Việt Bắc
Sông Lô
nước xanh
tròng trành mảnh nguyệt!
Bình ca
sương xuống
lạc
con đò!
Ðáy dạ thời gian
còn đọng
những tên
Như
Nà Phạc
Phủ Thông
Ðèo thùng
Khau vác.
(trang 5)
Nếu có ảnh hưởng Maïakovski ở chỗ leo
thang thì cũng chỉ là ảnh hưởng hình thức. Nội dung vẫn là nội dung Trần Dần.
Trần Dần tượng trưng. Trước hết là âm điệu: một nhịp hùng ca, một nhịp quân
hành. Nhưng không phải quốc thiều mà là nhạc rừng, nhạc núi, nhạc nội tâm của
người lính “mỗi đêm từ biệt một quê hương”. Người lính ấy mang tâm sự của
người dân mất nước, nhưng còn gánh cả những khổ đau của con người đói khát tự
do:
Tôi mất quê hương
từ khi
mới đẻ.
Mất
nước đỏ phù sa sông Hồng
Mất vịnh Hạ Long
Mất Huế
con sông Hương tình tự.
Mất
cửa biển Hải Phòng.
Mất mũi Cà Mau!
Tôi mất
những mùa thu
không én liệng.
Mất
mùa xuân
nhạt nhẽo cành đào.
Ngày đã mất
những mặt trời
không ấm nữa
Ðêm
lại còn
mất nốt
chiêm bao,
Tôi đói tự do
như
những bến tàu,
đói hàng hóa
đói thuyền khơi
đói biển.
(trang 29, 30)
Người lính Dần có ý thức về mình, người
lính Dần đã vượt ra ngoài ý thức rập khuôn của đám đông tập thể, người lính Dần
không hô khẩu hiệu, không bị lóa mắt vì hào quang hão huyền, người lính Dần nhìn
thấy những khổ đau của đồng đội, người lính Dần nhìn thấy những chết chóc của
chiến tranh:
Hố mắt bạn tôi
sâu như nấm huyệt
Có thể chôn
một chiếc quan tài
(trang44)
và người lính ấy đã nhìn thấy mình:
Bên suối
bao phen
tôi ôm ấp
nắng đào
chưa sấy
được nắm xương
ẩm mục
Nằm co quắp
trên sàn
lên cơn sốt
(trang 46)
và người lính ấy đã nhìn thấy người khác:
Mắt vàng sâu
thành
những cục nghệ vàng
Như ở một “suối vàng” nào
những tia mắt nghệ
lặng
nhìn nhau;
Nạn đói
kéo dài
ba tháng
Đêm hè
ngủ vẫn đắp chăn bông.
Bên đầu bản
họ ngồi
kêu
ngán ngẫm.
Chúng tôi ra vào
như
một rừng cây
trụi hết lá
trơ cành
khô khẳng
Sương từng đống
chất ùn
bên ngưỡng cửa
5 giờ chiều! Tôi ngã vật giữa cao
nguyên.
(trang 48)
Việt Bắc
của Trần Dần, không bịa đặt, không rừng hoa, biển cờ tiễn người ra trận, mà có
rừng bệnh, biển đói chắn bước hành quân, trong một vùng núi rừng từ ấy đã
thôi Tố Hữu mà rất Trần Dần:
Gió càng lên
thổi tắt
ít tinh cầu
Roi rét
quất tím bầm
mình mẩy những đêm thâu.
Ngang ngọn núi
đoàn quân
pháo thủ
ôm hàng tấn sắt
trên lưng.
Không còn là người
toàn bắp thịt không
Gân cốt
cuộn
từng búi thừng
búi chão!
….
Cả nước
thức ngàn
ngàn
đêm trắng
Mắt mở to
như cửa ngỏ
đen ngòm
Người dân nước
đã hóa thân
cò
vạc
chui bờ
rúc bụi
sống về đêm.
(trang 58- 59- 60)
Tác phẩm Ði! Ðây Việt Bắc! của Trần
Dần đã rửa tội cho những bài thơ kháng chiến cùng thời: cho những lấm lem, gian
dối, đối với những người đã chết. Khâm liệm những lầm than đau khổ của những
người còn sống. Đào thải những hào quang bịa đặt, những giá trị khả nghi. Trần
Dần vạch sự thực trên thơ, về “10 cây số máu”. Những chữ của trần Dần vừa
vẽ chiến tranh, vừa đả đảo chiến tranh. Trong trận Ðiện Biên, chữ chui xuống
hầm, lẩn vào hậu trường của người lính:
Tôi ngồi viết
trong hầm
căng bạt kín
Con đom đóm đèn
thiếu thở
mắt lim dim
Chỉ sáng đủ
đôi ba
dòng chữ.
Nếu như lọt
ra ngoài đêm
một tia sáng nhỏ
trái phá
sẽ
sầm sầm
xô đến
chôn ta!
Nơi đây
hút thuốc
phải trùm chăn…
Kẻo
bom nghiến
rừng ta
thành
cám bụi
Cái chết
rình con người
rình ta
cả
bữa ăn
cùng giấc ngủ.
….
Nơi đây
đã chết
ngọn đồi xanh.
Góc nọ
một rừng cây
ngã gục
(trang 86, 87)
Cuộc sống quanh tôi
mưa nắng
ngập hào,
Gian hầm nhỏ
nước vào
hôi hám
Nắm cơm xôi
nhão nhoét
trộn đen ruồi
Sống như đây
đã chết
một mùa đông
Mùa xuân đến
cũng còn
đang ngắc ngoải
(trang 90)
Sau những lời hùng của người chiến sĩ, lời
bi hướng về người hấp hối, lời bàn về ngõ cụt của chiến tranh, của những chiến
thắng đắp trên xác chết, tác giả muốn kết thúc tác phẩm bằng chương cuối, chương
13, với bài Hãy đi mãi. Nhưng con 13 xấu số, bài thơ chỉ được đăng
một lần trên báo Văn năm 57, rồi bị loại hẳn, ngay cả trong thời kỳ đổi mới.
Điều đó dễ hiểu: đối với một nước, không có giáo dục hoà bình, không ưa sáng
tạo, ngược lại, tất cả các loại hình chiến thắng xưa và nay đều được vinh thăng,
tôn thờ, thì một nhà thơ đi tìm hoà bình, tìm tự do sáng tạo, phỏng có ích gì?
Nhưng ai đã tiếp xúc với bài thơ ấy, thấy lời nó cứ sống mãi, tiếng nó cứ dai
dẳng vang lên, như một điệp khúc, như lối thoát duy nhất của con người: Hãy
đi mãi!
Khi trái đất còn đeo bom trước ngực
thắt lưng
còn lựu đạn bao xe; –
Khi bạo lực còn khua
môi mõm mốc xì
khẩu đại bác mỏi dừ
vẫn sủa;-
Khi bóng tối
còn đau như máy chém
những lời ca đứt cổ
bị bêu đầu
lũ đao phủ tập trung
hình cụ
mặt trời lên
phải mọc giữa rừng gươm.
(trích Hãy đi mãi in lại trong
Trần Dần ghi, trang 177)
Hãy đi mãi
đối với Trần Dần, là phải đi qua Việt Bắc, đi trên Việt Bắc,
đi khỏi chiến tranh, đi khỏi đói nghèo, dốt nát, vượt qua nhược tiểu, bước trên
đàn áp, đi khỏi nhục nhằn, nói lên nỗi lầm than của con người sống không tự do,
không sáng tạo:
” Tôi có thể mặc thây
ngàn tiếng chửi tục tằn
trừ tiếng chửi:
– “Sống không sáng tạo “
Khí thơ bất khuất, rất Trần Dần. Bài ca
đoạn tuyệt chiến tranh, hồi sinh chân lý cuối cùng: sáng tạo:
Tôi vẫn nâng chiếc đầu lâu nặng nề sáng
tạo
như nâng một viễn vọng đài.
Thơ độc âm: Mùa sạch
Trong sự khao khát cái mới, khách thơ
thường muốn tìm đến một cái gì triệt để. Tập Mùa sạch của Trần Dần được
nhà xuất bản Văn Học in năm 1997 có tính triệt để này. Trần Dần tìm đến thơ độc
âm, như một thử nghiệm triệt để.
Độc âm. Vì mỗi bài xoay quanh một âm
chính, ví dụ Hành trình trong, với âm trong:
Phố
trong
Bộ hành
trong
Giờ
trong
Tắcxi trong…
(trang 7)
Bài Lịch xuân, với âm xuân:
….Nơi ngâm hạt
xuân
Nơi tưới màu
xuân
Nơi đóng tàn xuân
Nơi bắc cầu
xuân
Nơi đúc thép xuân
Nơi rỡ mành xuân…
(trang 60)
Bài Lịch con cái, với âm
đông:
Ðứa cày ruộng
đông
Ðứa leo núi
đông
Ðứa mò biển
đông
Ðứa làm đường đông…
(trang 75)
Hoặc bài Lịch họ hàng, với âm
đồng:
Là trai đồng chiêm
Là gái đồng mùa
Là thúc bá đồng lầy
Là anh em đồng mỏ…
(trang 76)
Lối cách tân này của Trần Dần dựa trên nhịp điệu của ca dao,
đồng dao:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Ca dao, đồng dao thường hay lập lại âm đầu, lấy âm đầu làm âm
chính, âm chủ. Trần Dần lập lại âm cuối, hoặc âm giữa, lấy âm phụ, âm khách làm
chính. Ông tìm cách lạ hoá và tạo ra một loại đồng dao mới, chức năng không chỉ
“tả tình”, “tả cảnh” như ca dao đồng dao ngày trước, mà có thể có những chức
năng hoàn toàn khác, biến đổi tuỳ theo bài hát. Ví dụ, nếu ta đọc một mạch, liền
hơi: Phố trong, bộ hành trong, giờ trong, tắcxi trong… sẽ thấy bài thơ
diễn ra như một bức tranh siêu thực, nhiều hình ảnh lướt qua, cắt đứt nhau theo
nhịp điệu đồng dao. Nếu đọc một mạch liền hơi: Là trai đồng chiêm, là gái
đồng mùa, là thúc bá đồng lầy, là anh em đồng mỏ… chúng ta có một
quan hệ trai gái, họ hàng, làng xã. Nếu đọc một mạch: Nơi ngâm hạt xuân, nơi
tưới màu xuân, nơi đóng tàn xuân, nơi bắc cầu xuân, nơi đúc thép xuân, nơi rỡ
mành xuân… chúng ta thấy hiện ra trước mắt hoạt cảnh sống động của mùa
xuân, như xem một cuốn phim mà người cầm caméra đang quét rất nhanh ống kính dõi
theo tầm mắt. Trần Dần muốn tìm ra một thứ đồng dao mới, tạo những ấn tượng mới,
những hiệu quả mới… Một thứ đồng dao không đứng một chỗ, mà đi.
Tập Mùa sạch là tác phẩm cách tân duy nhất được in ra
của Trần Dần, những tìm tòi khác, trong những tập thơ khác, vẫn ở trạng thái
nằm, chưa in. Cho nên chúng ta chưa thể biết hết những thử nghiệm thơ của
Trần Dần.
Trong thử nghiệm độc âm này, nhịp điệu thường bị gò bó, có
những câu trở thành khiên cưỡng, eo hẹp. Nhưng thật ra, không biết Trần Dần có
cố ý cách tân thơ, hay là ông chỉ muốn chứng minh một điều: ở tận cùng của gò
bó, nhà thơ vẫn làm việc được, vẫn sáng tác được. Và trong “không khí độc âm
toàn diện”, “ta về ta tắm ao ta”, người thơ vẫn có thể tạo ra một bối cảnh khác
thường mà âm thanh, ý tưởng và hình ảnh, cùng gặp gỡ trong một ánh sáng mới:
Ao ta…
Liềm chiêm hái sáng
Thuyền chiêm chở sáng
Ngõ chiêm ơi ới sáng
Cầu tre chiêm rửa sáng.
Chị em chiêm gánh sáng
Ao chiêm làu lạu sáng
Con trâu chiêm cày sáng
Cá chiêm đẻ sáng.
Bếp chiêm khua sáng
Lửa chiêm làn lạn sáng
Mưa chiêm hàn hạt sáng
Sương chiêm màng mạc sáng
Vú chiêm sàn sạt sáng
Gàu chiêm tát sáng
Hạt chiêm chín sáng
Làng chiêm gặt sáng
…
Người cấy sáng
Người hái sáng
Người ải sáng
Người ngâm sáng
Người rửa sáng
Người trảy sáng
Người quảy sáng
Người lảy sáng
Người bày sáng
Người lội sáng
Người xới sáng
Người bới sáng
Người tưới sáng
Người lưới sáng
Người vin sáng.
Người vun sáng.
Người trồng sáng.
Người hong sáng.
Người đong sáng.
Người tải sáng.
Người rắc sáng.
Người gặt sáng.
Người giặt sáng….
(trích Ao ta, trang 29, 30, 31)
Sáng dồn đến, sáng ập vào, sáng tấn công
mọi mặt, khiến người đọc chưa kịp tảo thanh sáng trước đã bị sáng
sau áp đảo: sự đuổi bắt sáng tạo ra một sức hút kỳ lạ, sức lôi cuốn của
độc âm, tựa như : một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng, bốn
ông sáng sao… khiến người hát, người nghe không thể ngừng mà cứ phải đi,
đi mãi… Trong không khí đen tối của hòm chữ bị giam trong mồ, sáng
là một độc âm thiên thần, sáng đưa con người đến thế kỷ mới, đến sáng
thế kỷ.
Và khi Trần Dần dùng độc âm như một hình ảnh độc
vận của đất nước đã được tảo thanh, rửa sạch, trong tất cả các lãnh vực xã
hội, chính trị và tư tưởng, chỉ còn lại một mùa duy nhất: mùa
sạch, thì tác dụng độc âm trở nên vô cùng mạnh mẽ:
Tôi thích nhất công tác ở Việt Nam mùa
Bò mùa lúc nhúc công trường mùa.
Ga mùa lục xục tàu mùa
Chiều mùa lục bục sấm mùa.
Tỉnh mùa lục tục gặt mùa.
Mạ mùa gieo mùa.
Sao mùa vằng vặc ngoại thành mùa.
Xóm mùa lạc xạc cày mùa.
Mùa Việt Nam trên quả đất mùa.
(trích Trên quả đất mùa, trang 14)
Mùa sạch trở nên đỉnh cao của nước Việt sạch,
khi cả cõi bờ đã được quét sạch để đạt tới:
Miền sạch
Thuyền sạch
Bút sạch
Tất cả đều sạch, từ tư tưởng đến bốn mùa, đều sạch. Ở
đỉnh sạch. Không còn lại gì.
Phố Dần trong Cổng tỉnh
Dạ khúc trường thiên Cổng tỉnh là một tập tiểu thuyết
thơ, viết trong khoảng 59-60, cùng thời với ba tập thơ khác: Sắc lệnh, Con
tầu xã hội và 17 tình ca. Cả ba đều chưa xuất bản. 59-60 cũng là năm
Hoàng Cầm sáng tác Về Kinh Bắc.
Cổng tỉnh được nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 1994,
15 năm sau khi viết xong.
Thời điểm 58-60 là những năm kinh hoàng, sau Nhân Văn. Không
khí đen tối dội lại trong Về Kinh Bắc và Cổng tỉnh.
Cả Trần Dần lẫn Hoàng Cầm đều lấy đêm làm phông cho
hai khúc ca bi tráng của mình.
Về Kinh Bắc bắt đầu bằng 5 đêm: đêm Thổ, đêm Kim, đêm
Mộc, đêm Thủy và đêm Hỏa. Hoàng Cầm về Kinh Bắc, về quê cha đất tổ, lậy
mẹ, mách mẹ những kinh hoàng đàn áp:
Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc
Con không cười, con thoảng nhớ thoảng quên.
Không chỗ dung thân, Trần Dần về Nam Ðịnh, về “phố mẹ”,
nhờ ký ức mở cửa cổng tỉnh, mở gan ruột mình, trở về “tảo mộ xó quê”
trong nhà tù tỉnh, bằng những lời thơ mà ông gọi là dạ khúc. Dạ khúc
về những đêm giữa ban ngày trong ông và trong lòng tỉnh.
Cổng tỉnh, như lời ghi dưới tựa, là tập thơ tiểu
thuyết và là dạ khúc trường thiên.
Hai chữ dạ khúc vừa nói lên tính chất tâm huyết gan
ruột của bài ca, dạ như lòng dạ. Dạ cũng là đêm, bài ca về
cõi đêm của tác giả và những phận người nằm trong cổng tỉnh.
Cổng tỉnh là một bản trường ca, một cuốn tiểu thuyết
hiện thực xã hội, viết về một thời trong lịch sử cận đại: thời Pháp thuộc và
Cách mạng kháng chiến. Với những phận người, phận vện, phận
tỉnh, phận phố… khi vươn lên dũng tráng, bất khuất, như những anh
hùng, khi lếch thếch kéo nhau đi như lũ ăn mày, sinh ra trong đói khát, dốt nát,
bị trị, hết thực dân Pháp đến phát-xít Nhật. Cảnh quá khứ Pháp thuộc, phản ánh
hồi quang hiện tại 59-60: Bị trị hay độc lập: thành phố vẫn bị cầm tù. Một chữ
cổng đã nói lên kiếp tù trong tỉnh: Chỉ đề lao mới cần cổng,
chứ tỉnh nào lại có cổng, như tỉnh Nam của Trần Dần thời 59-60.
Trang đầu mở ra với lời khai từ, nhà thơ gọi là Khai tù,
như lời khai của những chữ trong tù, như lời đối thoại của một người đi
đêm thì thầm cùng kỷ niệm:
Kỷ niệm! Ðưa tôi về chốn cũ
Ðừng ngại mây che từng cây số buồn rầu
Ðừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ thương.
Và cứ thế, nhà thơ và kỷ niệm âm thầm dẫn nhau đi, trong đêm,
qua cổng tỉnh, trở về đất cũ, chỗ nào không nhớ rõ, nhà thơ lại hỏi kỷ niệm:
Ðây có phải bụi Cửa Trường?
Một cuống nhau chôn trạnh lòng phố mẹ!…
Ðây có phải đường Hàng Song xanh lấm tấm sao chiều?
Và cứ thế, người và kỷ niệm lủi thủi rủ nhau đi, về sâu, về
xa, xuyên thời gian, về lại tuổi trẻ:
16 tuổi!!!
Ðây là đêm
Ngoài cổng đề lao tim… sao mọc hững hờ.
Ðây là ngày
thời gian lặp đi lặp lại những chiều vàng vọt như nhau.
Và cứ thế, vừa đi, nhà thơ vừa tâm sự với kỷ niệm:
Tôi kiểm thảo bản thân cùng một thời đại buồn rầu
Ðêm xuống ướt mui rồi
Sông khuya tì tũm vỗ
Ði thôi! Kỷ niệm!
Có lẽ xa kia là phố tôi sinh
Có sương sớm đọng trên đèn muộn
Tù và thơ ơi!
Dạ khúc khởi đầu.
Cuốn tiểu thuyết gồm hai phần, phần thứ nhất tên là Ðêm
và phần hai Càng đêm.
Chuyến đi về không gian cũ: thành Nam, ngược thời gian xưa:
tuổi trẻ. Chủ đích ngược thời gian và không gian, nhập vào chuyến đi hôm nay của
Trần Dần sau Nhân Văn. Cùng đi, là những kinh hoàng hôm qua, gặp những đen tối
hãm hại hôm nay, như những bóng ma không tuổi, vượt ngày tháng, đeo đuổi mãi con
người.
Nếu Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm bắt đầu bằng đêm Thổ,
đêm Kim, đêm Mộc, đêm Thủy và đêm Hỏa. Năm bề bốn hướng đều đêm. Thì Trần Dần về
thành Nam hôm ấy, cũng trong đêm, càng đi, càng đêm:
Gió thổi kèm ma mưa thui lòng ngõ hẹp.
ò… ò đêm đi như một cỗ quan tài.
(trang 11)
Tượng chúa Jê-xu búa gõ tầm tầm
Gió đánh hàng bàng, lá chết chạy vòng quanh
(trang 12)
Quá khứ và hiện tại hoà nhau trong không khí tha ma: Thành
Nam dưới thời Pháp thuộc chôn trong hiện tại 59-60 của Trần Dần:
Cổng tỉnh! Người đi nhoà nhoà Cổng tỉnh !
Lá rắc vàng hồ
Phố héo người đi
Là mùa đi!
Người đi manh chiếu rách
Người đi tay áo quệt đôi mày
Năm tàn rồi… Ai?
Ai bắt người đi nhòa nhoà Cổng tỉnh
Ai?
Ai treo cổ rặng đèn trên dãy phố bồ côi
(trang 50)
Thành Nam lâm nạm: “Phố cụt bị thương… phố mù khắc
khoải” (trang 36),
Thành Nam tự tử: “Phố thắt cổ có ngọn đèn hoang. Phố hoang
có ngọn đèn thắt cổ”. (trang18)
Thành Nam tàn tạ: “Phố úa. Đừng về phố úa”
(trang 49)
Thành phố âm ty, đi đâu cũng lạc, cũng thấy xõa tóc:
“Ði đâu? Chớ lạc thành quách bàn cờ.
Xòa xõa tóc hàng cây.”
(trang 18)
Thành phố phòng nhì, thành phố công an, mật vụ, khắp nẻo bị
chặn đường:
” Ðứng lại! Ai qua phố ngang” (trang 18)
“Bóng tối đầy hàm răng cảnh sát
Ðầu phố ngoạm một người”
(trang 21)
Thành phố không lối thoát, ngõ cụt, người đâm:
Phố cụt đâm vào phố cụt
Tôi đâm ngang phố Hàng Ðồng đâm bổ xuống bờ sông
(trang 30)
Thành phố không chỗ dung thân:
“Tôi còn một mình kháng cự với mông mênh
Tôi đứng thẳng trụ người đêm ngã bẩy”
(trang 17)
Thành phố ăn mày:
“Phố chéo chênh chênh. Ăn mày gặp ăn mày
Lườm nhau – mắt vải điều cay cay chớp nắng”
(trang 12)
Thành phố bán mình:
“Phố nịt vú-phố rơi voan
Phố nào thơm dạ hợp” (trang 23)
Thành phố, đói, Ất Dậu: con vện vàng hấp hối, kéo chiếc xe
chở nắm xương khô của chủ, đi lần hồi, hành khất từng nhà:
Chiếc xe lăn thừng nâu … con vàng rũ cổ
Một nắm xương khô lọc lọc lòng đường.
Vàng con ơi! Hãy kéo thoai thoải hoàng hôn
Xe đi run run từng bục cửa
Hãy chờ! Nếu quả có lòng nhân.
Heo may dù úa phố
(trang 45)
Rồi một chiều đông con vàng kiệt sức, bỏ
chủ ra đi. Người hành khất già quờ quạng:
Ai?
Ai kẻ chôn con?
Cất mình chẳng nổi.
Ngã vật bên lề đường
Nấc rồi lại nấc
Vàng con ơi!
Cho bố khất!
Tay run quờ lá rỉ
Ðắp chiếu đầy xe
Con bằng lòng vậy
Kiếp sau báo đáp đồng lần
Cha lại kéo xe con. (trang 46)
Cổng tỉnh là một liên khúc bi đát: đói, đau, cùm,
xích… vượt thời gian theo đuổi mãi con người. Cổng tỉnh là những chân dung hôm
qua và hôm nay, chập vào nhau như hai giọt nước: chân dung người, chân dung chó,
chân dung phố, chân dung gió, chân dung mưa, chân dung bom, chân dung thành phố,
chân dung lãnh tụ:
Đã có ta suy nghĩ hộ các ngươi!
Thủy bộ không quân!
Mệnh lệnh!
Các ngươi sẽ đi xéo nát các thành quách
Tắt Bách! Tắt Be to (Beetho)! Tắt mọi
thứ nhạc.
Chỉ để gầm gừ họng sắt nhạc ca nông
Ta muốn nghe các dân tộc rống lên như
con bò bị búa nện
Các ngươi phải luôn tay chọc tiết các
kinh thành
Các ngươi sẽ đi dạy dỗ các dân tộc
Người Áo! Ðừng nhận mình có thành Viên
Người Lỗ! Hãy quên Bucarest.
Hỡi năm đại châu! Hỡi tiếng nói đầu
lòng!
Phải bập bẹ Furher!
[…]
Ở đâu cũng chỉ cần một thứ ảnh; ảnh ta
thôi!
Một thứ tượng: tượng ta là đủ!
(trang 96-97)
Chân dung Hitler. Đúng. Võ rất kín: Chân dung
Hitler trùng hợp với chân dung những lãnh tụ độc tài, tiêu diệt nghệ thuật, hò
hét chiến tranh: “ta suy nghĩ hộ, tắt mọi thứ nhạc, chỉ gầm gừ họng sắt nhạc
ca nông”, thế giới đại đồng: “Hỡi năm đại châu! Hỡi tiếng nói đầu lòng!
Phải bập bẹ Furher”, nhại thơ Tố Hữu: “Tiếng đầu lòng con gọi Xít Ta
Lin”.
Thành Nam trong Cổng tỉnh, được dựng
nên bằng những chân dung hôm qua và hôm nay như thế: những chân dung hò hét, của
bom đạn chiến tranh; những chân dung rên la, đói rét, chết lịm, của con người;
những chân dung anh hùng, đồng chí; những chân dung nhà lao, cùm xích; những
chân dung im lìm rũ xuống, những chân dung gậy gộc đứng lên; những chân dung
hoan hô, đả đảo… trên một bản đồ chằng chịt phố: những con phố Dần
trong Cổng tỉnh.
Nguyễn Tuân có chữ phố Phái -nhưng
chưa ai đả động đến phố Dần trong Cổng tỉnh- những con phố sinh
ra, lớn lên, đứng dậy mà đi như người, những con phố vàng úa, chết già, những
con phố thanh xuân chết yểu, những con phố trúng đạn, bị thương, những con phố
què quặt, những “con phố hoang có ngọn đèn thắt cổ”.
Để lập chuyển động phố, Cổng tỉnh chôn
vùi chữ cũ, ăn mừng chữ mới, tạo những chữ sơ sinh, trần
truồng, chưa mặc áo lọt lòng, chưa ô nhiễm bụi bậm. Cổng tỉnh mở ra, về
phía tỉnh, đánh thức kho ngôn từ bất tận đang ngủ yên trong mỗi con
đường, mỗi hàng cây, mỗi phố, mỗi nhà, của một cõi nhân sinh chưa ai tìm đến.
Nhà thơ đi trong Cổng tỉnh, vừa đi vừa
kể chuyện đời người, đời phố, kể những cô đơn, bất hạnh, trong chiến tranh, đói
khát, trong cách mạng vùng lên, trong con người đổ xuống, dầm trong mưa máu. Phố
Dần cũng chuyển động theo người. Phố Dần cũng sinh ra, lớn lên, trưỏng thành,
yêu đương, tàn tạ, đổ nát. Phố Dần cưu mang cả một thời trong Cổng tỉnh.
Phố Dần muôn mặt, đầy hình sắc, đầy tâm sự, đổ ngược đi xuôi, phổ phận vào những
sinh linh như ta phổ nhạc. Ngay từ “Nhất định thắng” Trần Dần đã đem
phố vào thơ, ông phổ thơ con phố Sinh Từ, bằng khổ đau của những kiếp
đọa đầy sau chiến thắng. Phố của Dần không chỉ đơn thuần một ký hiệu ngôn
ngữ, phố đã trở thành những sinh linh, có tim, óc, đột biến, có dung
nhan, tâm sự khác nhau: Phố u ơ, phố vị thành niên, phố trăng non, phố dậy
thì, phố cánh sen, phố đào, phố mận, phố ngọc, phố hai cô, phố chụm đầu, phố bơ
vơ, phố thề, phố chờ, phố lỗi hẹn, phố phụ tình, phố chạ người, phố xanh, phố
đỏ, phố lam, phố bão, phố chiều chìm, phố đục phố trong, phố đâm ngang, phố dọc,
phố ngách xiên, phố trăng chênh, phố mạng nhện, phố gió, phố vắng, phố Bà đanh,
phố lấm, phố lạnh, phố úa, phố bồ côi, phố goá, phố đói, phố rét, phố xào xạc,
phố đèn vàng, phố đèn nâu, phố đèn sương, phố đèn rung, phố đèn Sành, phố Máy
cưa, phố vàng lờ, phố Khách, phố cụt bị thương, phố mù khác khoải, phố đổ chàm,
phố khổ, phố bụi, phố giày đinh, phố đìu hiu, phố mắt, phố xích, phố hò
reo, phố thề, phố bãi chợ, phố hoác phố hơ, phố rỗng, phố nứt, phố khô dầu, phố
long sơn, phố cháy, phố đổ, phố đè, phố què, phố máu, phố chết, phố xác, phố vôi
bột, phố tha ma…
Những phố Dần, cứ phố phố ôm nhau nằm ngủ
(trang 13), phố nhà mồ thông sang phố nhà mồ (114). Những phố Dần cứ:
“Mặc! Mặc phố xúc xắc tống tình. Mặc phố me Tây cởi yếm” (trang 2). Còn
người Dần, bên cạnh phố, người Dần, làm gì? Người Dần đi kháng chiến, người Dần
viết lịch sử. Một lịch sử chiến tranh mưa máu, một lịch sử “ăn khách”, một lịch
sử làm nên những best-sellers, một lịch sử bán chạy như tôm tươi, trên khắp địa
cầu:
“Báo đê!” … số đặc biệt buổi chiều
…
Mưa máu ! Mưa máu cổng nhà thờ
Đàn chiên xạc xào buổi lễ
…
Mưa máu phố trăng non trẻ thơ chơi rồng
rắn
Mưa máu thư tình
Mủ chữ nhoà trang (trang 89)
Người Dần vẫn đi trong phố, trong
đêm, càng đi càng đêm… Sau chiến thắng, người Dần được gì?: “Tôi
được- đầu lâu ao máu. Ánh đèn bày nhày phố gái mãi dâm” (trang
106). Và sau nữa, thời 59-60, người Dần còn được, được nhiều hơn
nữa: “Sớm trước trổ cung vua. Chiều sau tạc chó đá” (trang
111).
Phố Dần chằng chịt tỉnh Nam, chằng chịt trên
địa đồ đất nước. Một đất nước bán chạy khói lửa, xuất cảng tin tức chiến tranh,
làm giàu các cột báo năm châu bốn biển, nuôi sống hàng vạn nhà báo, bằng những
cái chết của dân mình: toàn anh hùng liệt sĩ. “Báo đê! Báo đê!”, từ 1959,
Trần Dần đã nhìn thấy, trong Cổng tỉnh, một nước Việt đem bán cái lầm
than, chém giết của mình, bán sốt dẻo cho những lò thông tin, luôn luôn cần rực
lửa.
1945, “Các đồng chí về. Nghị quyết nằm
trong hốc ngực” (trang 71). Theo chân anh hùng Phạm Bảy, “người đồng chí
Đảng đầu tiên”, “cách mạng tuyển anh đi từ đó”. 1959, người Dần trở
về, đi lại những phố Dần, vào lại ngõ ngách cuộc cách mạng kháng chiến… bằng
những con chữ mới. 1959, sau cuộc tổng tấn công, càn quét, bắt sống, xử tử chữ
thời Nhân Văn, người Dần trở về quê cũ dẫn ta vào cô đơn, vào cõi chết, vào nhà
săm, vào phủ toàn quyền, vào hỏa lò, vào lớp học… bằng những âm vang khác,
không giống bất cứ một âm vang sôi sục nào của những bài thơ kháng chiến, giục
máu, thúc cờ. Mà bằng những con chữ chưa bao giờ xuất hiện trên thị trường chữ
nghiã cách mạng: Thơ ở đây làm với những con chữ ma, một thời đã chết trong cô
đơn, âm thầm; chúng rủ ta đi tảo mộ. Thơ ở đây là những con chữ bị giam trong
hòm lâu ngày, chúng trốn ra, run run, táp vào ta, lẫn với mưa, với gió. Chữ đây
là những sinh linh, những âm bản của cuộc đời. Chữ đây cứ tuôn ra như những giọt
nước mắt, những linh hồn đầy thương tích lang thang không nhà, không cửa. Chữ
đây là những sinh linh sống nhờ, thác gửi. Mỗi lần nhà thơ gõ đũa gọi hồn là
chúng đi theo. Người đọc mê lạc trong nghĩa điạ chữ, bạt ngàn mồ mả, chằng chịt
Cổng tỉnh.
Trong những núi thơ ca tụng kháng chiến, ca
tụng cách mạng mùa thu, Cổng tỉnh trổi lên như một cung đàn lỗi nhịp, một
ngọn cỏ dại, mọc xế bên mồ.
Thụy Khuê
Paris tháng 3/2002-4/2005
© Copyright Thụy Khuê 2004