Sứ thần Giang Văn Minh thà chết không để nhục mệnh vua

Sau khi Giang Văn Minh bị triều đình nhà Minh hại, vua Lê Thần Tông đã đến bái kiến linh cữu ông, đồng thời ban tặng câu đối “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng”.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của nhà sử học Ngô Sỹ Liên, Giang Văn Minh sinh năm 1573 tại xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội).

Ông được mệnh danh sứ thần “Bất nhục quân mệnh” – không để nhục mệnh vua – vì đã đối đáp thẳng thắn trước triều đình nhà Minh.

Vốn là người có tài trí hơn người, thông minh từ nhỏ, ông đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) trong kỳ thi Đình đời Lê Thần Tông.

Vì khoa thi này không có ai đỗ trạng nguyên hay bảng nhãn, ông là người đỗ cao nhất. Không lâu sau đó, ông lần lượt được bổ nhiệm các chức vụ như Binh khoa đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631).

Ngày 30/12 năm Dương Hòa thứ ba (1637), Giang Văn Minh và Thiêm đô Ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua Lê cử làm chánh sứ cùng 4 phó sứ Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu đoàn sứ bộ sang nhà Minh.

Trong chuyến đi này, ngoài giai thoại về việc đối đáp nổi tiếng của Giang Văn Minh với triều đình phương Bắc, ông còn đấu tranh buộc nhà Minh bỏ lệ cống người vàng hàng năm trước đó.

Giang Van Minh anh 1

Nhà thờ thám hoa Giang Văn Minh tại Sơn Tây, Hà Nội ngày nay.

 

Theo sách Các sứ thần Việt Nam, vào ngày khánh thọ của vua Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (Sùng Trinh), hoàng đế nhà Minh rất bất bình bởi sứ giả các nước đã tề tựu đông đủ mà sứ thần Việt không đến. Hoàng đế nhà Minh liền truyền cho thị vệ đến nhà công quán hỏi nguyên do.

Khi đến nơi, đám lính thấy sứ thần Giang Văn Minh đang nằm trên giường ôm mặt khóc. Chúng bắt buộc ông phải vào triều.

Trả lời câu hỏi vì sao không vào triều, Giang Văn Minh nghẹn ngào nói: “Thần tự biết vắng hôm nay là phạm vào trọng tội, xin hoàng đế lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần đi sứ xa quê, nhà cửa cố hương vốn neo đơn, ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm thì thấy xót xa trong dạ!”.

Nói xong, ông lại ôm mặt khóc ầm lên. Hoàng đế nhà Minh thấy vậy liền bật cười nói rằng: “Tưởng sao chứ như thế thì việc gì ngươi phải khóc! Khá khen cho nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ thì còn có thể được, chứ ông tổ xa xôi như vậy có gì phải băn khoăn cho lắm. Người khuất đã xa đến mấy đời thì cũng có thể miễn nghị”.

Ngay lúc đó, đột nhiên Giang Văn Minh ngừng khóc rồi đứng dậy lau nước mắt và ngẩng đầu lên nói rằng: “Muôn tâu, lời dạy của hoàng đế thật quý báu. Chính thần cũng đã nghĩ như vậy mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời có lắm chuyện xa xôi mà vẫn không được miễn nghị. Chẳng hạn, việc thiên triều bắt nước Nam phải cống người vàng để trả nợ Liễu Thăng cách đây đã 200 năm.

Nay được lời hoàng đế ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với ngày khánh tiết này. Cúi xin hoàng đế từ đây miễn nghị cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu”.

Nghe xong, hoàng đế nhà Minh biết mình đã mắc lừa sứ thần nước Nam, nhưng lời đã nói ra cũng đành “ngậm bồ hòn làm ngọt” mà gật đầu ra lệnh cho bãi bỏ lệ cống người vàng.

Chuyện cũng kể rằng trong buổi thiết triều này, lấy lý do “vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” để ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê và bãi bỏ công nhận ngoại giao với nhà Mạc.

Đồng thời, vua Minh còn ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối như sau: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”, nghĩa là “Đồng trụ đến giờ rêu vẫn mọc”. Câu này có hàm ý nhắc việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” – Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong.

Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”, nghĩa là “Bạch Đằng thuở trước máu còn loang”. Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.

Vào thời bấy giờ, câu đối này được xem là cái tát thẳng vào mặt hoàng đế nhà Minh trước đông đảo văn võ bá quan của thiên triều và sứ bộ các nước. Phần vì tức giận, phần vì lo sợ trước tài năng của sứ thần Giang Văn Minh, vua Minh đã gạt bỏ thể diện, bất chấp luật lệ bang giao, trả thù hèn hạ bằng cách hại Giang Văn Minh.

Giang Văn Minh mất ngày mồng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1638), khi 65 tuổi. Dù nghĩa vụ đi sứ dở dang, đoàn sứ bộ do thám hoa Giang Văn Minh dẫn đầu đã tỏ rõ khí phách hiên ngang của người dân Đại Việt không khuất phục trước ách đô hộ của triều đình phương Bắc.

Thương tiếc và cảm phục một sứ thần tài trí, dũng cảm, không chịu khuất phục trước uy vũ kẻ thù để bảo vệ danh dự của Tổ quốc, vua Lê Thần Tông đã đến bái kiến linh cữu ông, đồng thời ban tặng đôi câu đối: “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng”, nghĩa là: Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng danh anh hùng thiên cổ.

Rate this post