Nhật Trường Trần Thiện Thanh, người viết sử thi cho nhạc lính – Âm Nhạc Online

10/2018

Trong bài viết của Trần Doãn Nho về “Nhạc Lính” đã ghi nhận: “Có khá nhiều tác giả viết về người lính: Y Vân, Trần Thiện Thanh, Nhật Ngân, Nguyễn Văn Đông, Lê Dinh, Anh Bằng, Minh Kỳ, Hoài Linh, Huỳnh Anh, Phạm Thế Mỹ, Đinh Miên Vũ, Phạm Đình Chương, Tuấn Khanh, Lam Phương, Trúc Phương, Trầm Tử Thiêng, Nguyên Đàm, Nguyên Diệu, Phan Trần… Trong số đó, Trần Thiện Thanh là nhạc sĩ viết nhiều nhất…”. Còn có thêm Văn Giảng (Nguyên Đàm), Song Ngọc, Anh Thy, Duy Khánh, Mạnh Phát, Nhật Lệ, Hùng Cường, Mạc Phong Linh… hay Anh Việt Thu (cùng làm việc chung với Nhật Trường ở Phòng Văn Nghệ, Cục Tâm lý Chiến và Đài Phát thanh Quân Đội) nhưng chỉ có một vài bài.

Nói đến Nhật Trường Trần Thiện Thanh, liên tưởng đến nhạc lính và ngược lại. Sáng tác nhạc tình của Trần Thiện Thanh trong thời chinh chiến để làm thăng hoa hình ảnh người lính VNCH từ chiến trường đến hậu phương. Những ca khúc của anh không những in sâu vào tâm hồn người lính mà đi vào lòng mọi người từ thời binh lửa cho đến nay.

*

Trần Thiện Thanh sinh ngày 12 tháng 6 năm 1942 tại Phan Thiết. Trưởng nam trong gia đình có 7 anh em. “Thật sự dòng họ Trần Thiện từ ông tổ gần là Trần Thiện Chánh (1822-1874), tài kiêm văn vỏ, cho tới thân phụ của Trần Thiện Thanh là Trần Thiện Hải nức tiếng khắp Phan Thiết là kẻ tài hoa, đủ đường ca hát, đóng kịch, soạn nhạc… cho nên ảnh hưởng tới con cháu như Nhật Trường là điều không ai phủ nhận…” (Hồ Đinh, bút hiệu Mường Giang, người bạn cùng thời tiểu học với Trần Thiện Thanh).

Ngoài bút hiệu Nhật Trường, thỉnh thoảng đề tên Anh Chương (tên trưởng nam của anh với các ca khúc của như Tuyết Trắng, Chân Trời Tím (phổ thơ Nguyễn Văn Hạnh), Hãy Trả Lời Em, Tâm Sự Người Lính Trẻ, Ngày Đầu Một Năm, Người Yêu Của Lính…). Sau nầy Trần Thiện Anh Chương ở Hoa Kỳ làm truyền thông với bút hiệu Thanh Toàn (Trần Thiện Thanh Toàn là chú ruột).

Anh cũng dùng bút hiệu Thanh Trân Trần Thị (tên con gái thứ nhì) qua một số nhạc phẩm khác như Chuyện Hẹn Hò, Phút Giao Mùa, Chuyện Lứa Đôi…

(Có một số bài hát nổi tiếng như Tình Đầu Tình Cuối, Tình Thiên Thu, Bắc Đẩu, Mầu Mũ Anh Mầu Áo Em, Tình Có Như Không… nhiều người nghĩ là của Trần Thiện Thanh, nhưng thật ra, đã được in với tên Trần Thiện Thanh Toàn, Thiếu Úy QLVNCH, em ruột Trần Thiện Thanh, hy sinh trên chiến trận khi còn trẻ. Ca khúc Trên Đỉnh Mùa Đông là sáng tác của hai anh em).

Theo lời người bạn Lê Hùng (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 341 Địa Phương Quân, tiểu khu Bình Tuy) học lớp Đệ Nhị cùng với Nhật Trường Trần Thiện Thanh ở trường trung học Ngô Đình Khôi niên khóa 1960-1961 ở Phan Thiết. Nhật Trường vừa là Trưởng Ban Văn Nghệ và cũng là cầu thủ (thủ môn) đội túc cầu của nhà trường.

Thân phụ Nhật Trường là Trần Thiện Hải, Trưởng Ty Thông Tin Bình Thuận, với môi trường đó qua chương trình phát thanh và văn nghệ cũng tạo thuận lợi cho Trần Thiện Thanh ca hát để giải trí. Trước đó, lúc còn nhỏ, Nhật Trường Trần Thiện Thanh (cũng như Song Ngọc ở Long Xuyên) đã tham gia trong Ban Văn Nghệ 860 của Bảo An Đoàn ở Bình Thuận, có Mỹ Thể, Nguyễn Hữu Sáng (em Nguyễn Hữu Thiết, gốc Quảng Trị, sinh tại Phan Thiết)…

Vì đam mê với kiếp cầm ca nên con đường học vấn bị dang dở và trong cái rủi có cái may khi rời quê nhà vào Sài Gòn để lập nghiệp… (Có vài bài viết cho biết năm 1958 Nhật Trường vào Sài Gòn lập nghiệp nhưng theo người bạn cho tôi biết cùng học với Trần Thiện Thanh ở Phan Thiết, sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp (1958), vào Sài Gòn học, thỉnh thoảng xuất hiện ca hát vào dịp cuối tuần ở Phan Thiết. Có lẽ vào Sài Gòn học vì chặng đường Sài Gòn – Phan Thiết khoảng hai trăm km, đi về dễ dàng và thời điểm đó).

Đầu thập niên 1960, Nhật Trường lập ban Tứ Ca Nhật Trường gồm anh và 3 nữ ca sĩ: Như Thủy (em gái), Vân Quỳnh và Diễm Chi. Băng nhạc Tiếng Hát Đôi Mươi trình bày nhiều ca khúc về lính, được nhiều người ái mộ.

Góp mặt trong nền tân nhạc ở Sài Gòn qua các nhạc phẩm: Đừng Hỏi Tại Sao (1963), Anh Về Với Em (1964), Bảy Ngày Đợi Mong (1964), Đôi Ngã Đôi Ta (1964), Một Ngày Gần Đây (1964), Ngày Anh Đi (1964), Hàn Mặc Tử (1964), Đồn Vắng Chiều Xuân (1964), Không Bao Giờ Ngăn Cách (1964), Nỗi Lòng Thanh Trúc (1964), Từ Đó Em Buồn (1964), Tình Yêu Thứ Nhất (1965), Người Yêu Của Lính (1965), Tâm Sự Mộng Cầm (1965), Một Đời Yêu Anh (1965), Đời Còn Nhiều Gian Dối (1965)…

Nhật Trường Trần Thiện Thanh tuy chưa vào lính nhưng đã sáng tác vài ca khúc nổi tiếng như Anh Về Với Em, Ngày Anh Đi, Không Bao Giờ Ngăn Cách, Đồn Vắng Chiều Xuân… Và, ca khúc Người Yêu Của Lính gắn liền với tiếng hát Ngọc Minh. Trước khi vào lính, Nhật Trường xuất hiện trên sân khấu và truyền hình với quân phục VNCH.

Năm 1965 nhập ngũ, Hạ Sĩ Quan phục vụ trong ngành Chiến Tranh Chính Trị. Đây cũng là môi trường của Trần Thiện Thanh khi “khoác áo treillis” sáng tác rất nhiều nhạc phẩm với các quân bnh chủng Hải, Lục, Không Quân VNCH.

Đề cập đến nhạc lính như lời Trần Doãn Nho:

“Lính ở đây là lính VNCH. Trong suốt những tháng năm dài chinh chiến, người lính là hình ảnh nổi bật trong cuộc sống, gắn chặt với cuộc chiến, diễn ra từng ngày từng giờ trên khắp đất nước. Gia đình nào, không ít thì nhiều, cũng đều có thân nhân nằm trong quân đội. Những thắng, bại trên chiến trường của người lính đều nhất nhất ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người. Và bi kịch của chiến tranh gắn liền với bi kịch cá nhân của từng người lính…

Nhạc lính, trước hết, nói về người lính, đã hẳn. Mà cũng là nói về chiến tranh. Về một xã hội vùng vẫy để tồn tại, để thích nghi với hoàn cảnh bom đạn. Và mơ ước. Những gian khổ, nhọc nhằn, vất vả, tiếc nuối, buồn chán, thất vọng, cay đắng, tủi nhục cùng với ước mơ – những gì vô cùng đời thường, vô cùng dân dã, tất cả đều được bày tỏ qua lời ca mà không cần phải sử dụng một ẩn dụ xa xôi nào. Do đó, khác với nhạc đỏ – thứ nhạc để chỉ nhạc Cộng Sản nói chung thường mang tính tuyên truyền – nhạc lính đầy tính cách nỗi niềm và mang tính nhân bản rõ nét.

… Đặc biệt, khác với nhạc đỏ, nhạc lính không nhằm gây căm thù. Không những thế, trong một số trường hợp, còn kêu gọi xóa bỏ căm thù, kêu gọi tình thương, kêu gọi hòa bình. Lời ca phần lớn và chủ yếu nói về nhiệm vụ, về lòng hăng say, sự hy sinh, ca ngợi sự chịu đựng gian khổ và lòng quả cảm của người lính. Và ngay cả khi đề cập đến cái chết anh hùng của những người sĩ quan chỉ huy trên chiến trường, ta cũng không hề thấy khêu gợi chút căm thù nào. Chỉ nói về cái chết, về sự hy sinh và nỗi tiếc thương…

Nhạc lính đồng thời cũng là nhạc tình. Cũng là nhạc quê hương. Nói về lính cũng chỉ để nói về tình. Mặt khác, trong một số bản tình ca thuần túy, hình ảnh người lính cũng hiện diện. Có lẽ vì đời lính, tự bản chất, chứa đựng sự xa cách, nhớ mong, niềm tuyệt vọng và bi kịch tình yêu…
… Trong khi còn chiến tranh, nhạc lính được hát như một bày tỏ nỗi lòng, có khi như một bù đắp, của những người khoác chiến y…”
(Trần Doãn Nho).

Từ giã mái trường, từ giã người yêu khi, chàng trai trẻ đáp tiếng gọi của non sông, với nghĩa vụ tòng quân:

“Ngày anh đi, ngày anh đi phượng rơi rơi ngàn lối
Áo chinh nhân ép cánh thư ngày nào
Gửi cho nhau lúc mới quen lần đầu
Ngày anh đi ngày anh đi sông hồ in dáng em
… Nếu anh là chiến sĩ đi xây đắp tương lai
Em là người ở lại muôn đời đợi chờ anh.”

Khi khoác áo chiến y, người yêu nơi hậu phương lúc nào cũng mong đợi lá thư từ đơn vị xa xôi nên dặn dò. Ca khúc “Nhớ Viết Thư Cho Em” qua tiếng hát của Lệ Thanh trên làn sóng phát thanh quá hay, nghe mà ngớ ngẩn, nghe mà ước mong có người yêu dễ thương như vậy để xoa dịu tâm hồn người lính:

“Nhớ viết thư cho em
mà bảo rằng dù xa cách đừng quên
Nhớ viết thư cho em
dù mực nhòe trên trang giấy trắng
Em biết đời phong sương
anh đã chôn dĩ vãng trong tim
Sống vui hiện tại và trọn đời anh cho tương lai
Nhớ viết thư cho em
để rạng ngời thêm trăng sáng nửa đêm
Nhớ hái đôi hoa sim đặt vào lòng tờ thư thương mến
Em muốn màu hoa sim
như màu yêu tím của đôi ta
Tím lên cuộc đời mà lòng ta thương mến nhau hoài”
(Trần Thiện Thanh & Mạnh Phát)

Ca khúc “Tình Thư Của Lính” thay cho lời tâm sự của người lính gởi cho người tình:

“Từ khi anh thôi học, và từ khi anh khoác áo treillis
Từ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây
… Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em.
Thư của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa tình.
Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngaỵ
Nhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy”.

Ca khúc “Tâm Sự Người Lính Trẻ” của Trần Thiện Thanh chia sẻ nỗi niềm:

“Từ khi anh thôi học từ khi đôi lứa đôi đường
Từ sông ngăn núi trở tạ từ không nói nên lời
Từ khi gót sông hồ ngược xuôi ôi những đêm thật dài hồn nghe thương nhớ ai
Một năm tìm vui nơi quan tái chưa về một lần dù chỉ một lần thôi”.

Trong thời binh lửa, qua vài ca khúc trữ tình nầy, cảm nhận cuộc tình thật lãng mạn, dễ thương, quá đẹp khi xa nhau. Câu nói của Stefan Zweig “Dù cho biển cách núi ngăn, lòng hai ta cũng mãi không rời xa” đã thể hiện ở ca khúc Trần Thiện Thanh.

Bài thơ “Cần Thiết” của Nguyên Sa đã một thời thay cho lá thư tình của tuổi học trò:

“Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau nước mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa”

Thì ca khúc của Trần Thiện Thanh chia sẻ hình ảnh giữa người lính với người yêu sự “cần thiết” đó thật đáng yêu:

“Nếu em không là người yêu của lính
Em sẽ nhớ ai Chủ Nhật trời xinh
Em sẽ nhớ ai đêm sương lạnh lùng
Và giữa chốn muôn trùng
Ai viết tên em lên tay súng.
Nếu em không là người yêu của lính
Ai sẽ nhớ em chiều dừng hành quân
Ai khẽ nhắc tên em muôn nghìn lần
Để thấy cánh sao gần
Không đẹp bằng hồ mắt giai nhân”
(Người Yêu Của Lính)

Người lính khó giữ đúng hẹn hò vì có khi vào giờ phút cuối phải thi hành nhiệm vụ của đơn vị đảm trách. Trong tình yêu phải có sự cảm thông cho nhau nên:

“Anh hẹn em cuối tuần
Chờ anh nơi cuối phố
Biết anh thích màu trời
Em đã bồi hồi chọn màu áo xanh”

Thế rồi qua 7 ngày đợi mong, không gặp người tình và cuối cùng:

“Chiều Thứ Bảy mưa rơi
Ai bảo anh lại tới
Ai bảo anh xin lỗi
Ai bảo anh nhiều lời cho mắt em lệ rơi”
(Bảy Ngày Đợi Mong)

Lời trách yêu đó thật nhẹ nhàng, “lệ rơi” khi gặp nhau mà không cần xin lỗi, không cần nhiều lời… Lời ca đó dành cho người thưởng thức cảm nhận.
Những người lính Mỹ (GI) tham chiến ở chiến trường VN, thường viết trên nón sắt “When I die I will go to heaven because I live in hell” (Khi tôi chết sẽ lên thiên đàng vì sống trong địa ngục) như “than thân trách phận” nhưng với Trần Thiện Thanh thì ngược lại:

“Viết tên người yêu lên ba lô nặng trĩu
Đêm quân hành dừng chân đồi hoa tím
Nhớ xưa đôi mình hẹn nhau mà sao sáng
Đâu bằng đôi mắt em…
Áo anh nhuộm phong sương nhưng quê hương đẹp ý
Lối trăng đầy tình em còn soi sáng
Sẽ không bao giờ
Không bao giờ ngăn cách đâu em”
(Không bao Giờ Ngăn Cách)

Chỉ có người lính nhớ người yêu mới viết tên trên ba lô, tâm hồn lãng mạn của người lính làm đẹp chân dung người tình trong cơn binh lửa.
Nhạc phẩm “Màu Mũ Anh Màu Áo Em”, Trần Thiện Thanh phác họa chân dung người lính của các binh chủng với người yêu:

“Khi em đã yêu anh chàng lính Thuỷ Quân Lục Chiến
Bạc màu áo trận, bạc luôn cả chiếc mũ xanh
Khi em đã yêu anh chàng áo rằn sọc ngang
Màu áo xanh rừng em nhớ mang.
Hay em đã yêu anh chàng lính Dù là anh
Dù tung giữa trời và địa cầu dâng đất lên
Khi em biết yêu thiên thần mũ đỏ dù hoa
Màu áo bông hồng em nhớ cho…
Khi em dám yêu anh bộ binh nghèo là anh
Thì màu áo vàng là màu tình duyên đó anh
Xin cho tháng năm không làm phai màu tình yêu
Màu mũ anh và màu áo em
Khi em đã yêu anh chàng lính biển là anh
Tầu đi bến nào còn tình thì qua bến nao
Khi em đã yêu anh chàng lính Hải Quân hào hoa
Màu trắng mây trời trên áo em.
Hay em đã yêu anh chàng lính Biệt Động Quân
Mà rừng núi sình lầy nào còn vương gót anh
Khi em đã yêu trên trời núi thẳm rừng sâu
Màu mũ nâu là màu áo em”

Để tưởng nhớ và tri ân những người con thân yêu của tổ quốc khi dấn thân trong binh nghiệp bảo vệ lý tưởng Quốc Gia, Dân Tộc. Thân xác không còn nhưng qua các ca khúc của Trần Thiện Thanh luôn gợi lại hình ảnh bi hùng, cao cả trong trái tim mọi người.

Hình ảnh hào hùng của cố Đại Úy Nguyễn Văn Đương của binh chủng Nhảy Dù hy sinh trong cuộc chiến qua ca khúc “Anh Không Chết Đâu Anh” của Trần Thiện Thanh góp phần hình ảnh cao đẹp trong Quân Sử VNCH.

Phan Nhật Nam tường thuật lại:

“… Đồi 31 ở mặt trận Hạ Lào, tháng Hai, 1971.. Đại quân Miền Nam gồm: Sư Đoàn Nhẩy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn I Bộ Binh, Lữ Đoàn I Thiết Kỵ, và Liên Đoàn I Biệt Động Quân cùng vượt biên giới Lào-Việt tiến đánh vùng hậu cần Tchépone của cộng sản Bắc Việt trên đất Lào. Lữ Đoàn 3 Dù gồm các Tiểu Đoàn 2, 3, và 8 giữ mặt Bắc của trục tiến quân. Vị trí Đồi 31 của Tiểu Đoàn 3 Dù được Pháo Đội B3 Pháo Binh Dù do Đại Úy Nguyễn Văn Đương chỉ huy yểm trợ. Vòng đai cực Bắc của Biệt Động Quân bị tấn công trước; tiếp vị trí Đồi 30 của Tiểu Đoàn 2 Dù bị công phá.. Cuối cùng, chỉ còn lại Căn Cứ Đồi 31 giữa vòng vây của một sư đoàn Bắc Việt (tỷ lệ 1 chống 15). Ngày 25/2, Đồi 31 bị tràn ngập, Đại Tá Nguyễn Văn Thọ và toàn ban tham mưu lữ đoàn đồng bị bắt, căn cứ chỉ còn khẩu pháo cuối cùng, Đại Úy Đương hạ ngang nòng bắn thẳng vào toán quân cộng sản theo xe tăng T54 ào lên đồi chiếm mục tiêu, và ông gục ngã với khẩu pháo cuối cùng bị phá hủy…”

Trong cuốn hồi ký “Một Cánh Hoa Dù” của Thiếu Tá Trương Dưỡng đã kể lại thời điểm căn cứ hỏa lực 31 Hạ Lào (cao điểm 456) vào 6 giờ 30 phút ngày 25 tháng 2 năm 1971, như sau:
“Ngay chiều hôm đó đồi 31 bị tràn ngập, tôi nghe tiếng Nguyễn Quốc Trụ, bạn cùng khóa, gọi Kiệt bên căn cứ A-Lưới là: “Xe tăng Việt Cộng đang trên hầm chỉ huy, mầy nói pháo binh bắn lên đầu tao, chờ tụi nó xuống tao sẽ tự tử, vĩnh biệt mầy, Kiệt ơi.” Căn cứ hỏa lực 31 thất thủ, bên trong gồm Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, BCH Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh, Pháo Đội 33 của Nguyễn Văn Đương…”. Và, người hùng Pháo Đội Trưởng Nguyễn Văn Đương chấp nhận hy sinh để khỏi lọt vào tay Cộng quân.

Trần Thiện Thanh viết lên lời ca vô cùng xúc động:

“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mũ đỏ tên Đương
Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu
Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau
Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi…
… Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm mầu
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh
Không, anh không, anh không chết đâu em, anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh …”

Ca khúc “Anh Không Chết Đâu Anh” là một trong những ca khúc được trình bày trong một bộ phim truyền hình có tên là “Trên Đỉnh Mùa Đông” do Trần Thiện Thanh làm đạo diễn, ra mắt vào năm 1972.

Trong bộ phim này, còn nhiều ca khúc bất hủ nữa của Trần Thiện Thanh cũng được hát: Trên Đỉnh Mùa Đông, Mùa Đông Của Anh, Chiều Trên Phá Tam Giang… Cuốn phim đã làm rơi lệ của biết bao nhiêu khán giả, đã mô tả được phần nào cái chết bi hùng của Đại Úy Nguyễn Văn Đương tại chiến trường Hạ Lào, trong chiến dịch hành quân Lam Sơn 719.

Đồi Charlie với cao độ 900 mét, Tây Bắc tỉnh Kon Tum, một cứ điểm quân sự để kiểm soát cả một vùng rộng lớn ngã ba Đông Dương… Địa danh này nổi tiếng với nhiều trận giao chiến khốc liệt giữa Quân Lực VNCH và đồng minh Hoa Kỳ với Cộng quân.

Ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân. Đơn vị thiện chiến nầy nhảy ngay trên đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, lúc này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót. Trung Tá Nguyễn Đình Bảo cùng Đại Đội chỉ huy và Đại Đội 110 trấn giữ ngọn đồi, 3 Đại Đội còn lại đóng chung quanh ngọn đồi. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn Nhảy Dù đóng ở xa vài chục cây số để yểm trợ.

Cộng quân dốc toàn bộ toàn bộ pháo kích vào Charlie thật nặng, mỗi ngày hàng ngàn quả đại bác 130 ly, 122 ly và cả hỏa tiễn 122 ly…

Cộng quân gia tăng quân số dù hàng ngàn cán binh trẻ từ miền Bắc đã bị nướng thiêu trong bom đạn nhưng họ vẫn ngông cuồng thí quân bao vây ngọn đồi Charlie. Dùng trận đánh “biển người” này, hầm chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo đã lãnh trọn 1 trái đạn pháo 130 ly và anh đã hy sinh! Sau 4 ngày đêm chiến đấu, ngọn đồi Charlie đã bị mất, cộng quân tràn ngập. Xác chết của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo tuy đã gói trong 3 lớp vải dù poncho nằm lại ở giao thông hào mà cũng bị bom đạn của quân ta trút xuống đánh bật Cộng quân, cày nát xác thân anh. Charlie đã tan tành, chung quanh chỉ là khói tro quyện với thây người chết của cả hai bên.

Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo hy sinh tại Charlie ngày 12 tháng 4 năm 1972 khi vừa đúng 35 tuổi.

Ca khúc “Người Ở Lại Charlie” của Trần Thiện Thanh, một trong những ca khúc được nhiều người ngưỡng mộ với người chiến sĩ VNCH:

“Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie
Anh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí
Vâng, chính anh là ngôi sao mới
Một lần này chợt sáng trưng
Là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng…
Ngày anh đi, anh đi anh đi từ tổ ấm
Anh ơi, địa danh nào thiếu dấu chân anh?…
Toumorong, Dakto, Krek, Snoul
Trưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu
Anh! Cũng anh vừa ở lại một mình, vừa ở lại một mình
Charlie, tên vẫn chưa quen người dân thị thành…
Xin một lần thôi, một lần thôi
Vẫy tay tạ từ Charlie
Xin một lần nữa, một lần nữa
Vẫy tay chào buồn anh đi”.

Với binh chủng Thiết Giáp, nhạc phẩm “Bắc Đẩu” của Trần Thiện Thanh và Trần Thiện Thanh Toàn ghi: Tặng anh hùng mũ đen Bắc Đẩu Nguyễn Ngoc Bích”. Cố Đại Úy Nguyễn Ngọc Bích, Chi Đoàn Trưởng CĐ 2, Thiết Đoàn 18:

“Người bỗng trở thành vì sao Bắc Đẩu
Lẻ loi tinh cầu đêm đen không dấu
Một tối chớm hè đạn pháo chuyển mưa
Cây Cầu Ga nhỏ anh qua, anh qua…
Xin muôn năm như vì sao sáng đó
Hỡi người định mệnh là vì sao lẻ
Dậy đi Bắc Đẩu, dậy đi Bắc Đẩu
Bừng mắt dậy soi sáng thiên thu…
Người tên Bắc Đẩu chết trận La Vang
Liệm xác ba lần Ngọc bích cũng tan
Chỉ còn vì sao thôi, chỉ còn vì sao thôi”

Danh hiệu Bắc Đẩu là đặt lệnh truyền tin của anh Nguyễn Ngọc Bích. Trường hợp Trần Thiện Thanh sáng tác ca khúc nầy theo lời kể của anh Lê Văn Mạnh (Thiếu Tá kỵ binh) cho biết, trong buổi gặp nhau ở quán nhậu tại Sài Gòn, Trần Thiện Thanh thấy hai vị Thiếu Tá kỵ binh Trần Hữu Thành và Lê Văn Nho ngồi uống beer với nhau, hai người nhưng có 3 ly, mỗi khi uống rót beer vào 3 ly rồi thay phiên nhau uống ly beer người vắng mặt. Trần Thiện Thanh thấy lạ nên đến hỏi cho biết “sự tình”. Khi ở chung đơn vị, 3 anh em thường có nhau, nay một người đã mất, để tưởng nhớ người bạn không còn nhau nữa nên lúc nào cũng vậy. Cảm tính tình chiến hữu với nhau nên ca khúc “Bắc Đẩu” hình thành…

Ca khúc Rừng Lá Thấp, Trần Thiện Thanh viết cho người bạn cùng quê ở Phan Thiết, Đại Úy Vũ Mạnh Hùng trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, đã hy sinh khi chận quân địch tại Hàng Xanh, Cầu Bình Lợi trong trận Mậu Thân!

Đại Úy phi công Trần Thế Vinh, đã vị quốc vong thân trên vùng trời Trị Thiên ngày 9 tháng 4 năm 1972. Ca khúc “Bay Lên Cao Đi Anh” của Trần Thiện Thanh không than khóc, ủy mị mà vẽ lên nét hào hùng chiến sĩ Không Quân:

“… Cao bay lên cao, bay lên cao đi anh
Như trong kỷ niệm, anh đạp gió xé mây trôi
Cao bay lên cao, bay lên cao đi anh
Xin linh hồn anh, lên trời cao bay thật mau
Xin cho cao thêm cho thêm lên cao lên
Cao câu nguyện cầu cho tuổi trẻ sớm đi xa
Xin cho cao lên cho cao lên cao lên
Hãy ngước nhìn không gian Việt Nam cao diệu vợi
… Bay lên bay lên cao đi anh
Mang theo hào hùng cho cuồng bão biết xôn xao
Bay lên bay lên cao, bay lên cao đi anh
Thế giới chìm sâu anh vừa qua còn mộng du
Cao bay lên, cao bay lên cao, đi anh
Xin linh hồn anh lên thật cao lên thật nhanh”

Với Không Quân và Hải Quân, Trần Thiện Thanh tô đẹp biết bao hình ảnh của quân chủng nầy. Ca khúc Tuyết Trắng, Trần Thiện Thanh dùng hình ảnh mây trời như tuyết, quá tuyệt:

“Đây áo bay màu xanh xanh như tình ái
Thắt lại khăn ấm chính em đan
Khi gió quay cuồng sau cánh bay
Con tàu thét gầm cho tim ngất ngây
Phi đạo chạy dài anh cất cánh bay lên…
Ngả nghiêng cánh chim con tàu sẽ rời, rời xa thành phố rồi
Mây giăng thật thấp mây đan lụa trắng mây pha màu nắng.
Vượt cao vút cao mây trời kết thành một vùng tuyết trắng ngần
Tuyết ơi xin nhuộm trắng trong tâm hồn em gái nhỏ tôi thương.
Khi nắng chiều đi không gian chợt tối
Xóa nhòa vùng tuyết trắng mông mênh
Anh ước sao tình mình như tuyết trinh
Cho dù chúng mình không gian cách ngăn
Cho dù tuyết trắng đã chìm trong màn đêm”.

Nhạc phẩm Hoa Biển của Trần Thiện Thanh và Anh Thy, đại lễ và quân phục của quân chủng, thủy thủ màu trắng, sóng biển màu trắng… tất cả đều là màu trắng giữa đại dương, màu hoa biển:

“… Tại em suy tư bên bờ vắng
Nên đêm vượt trùng anh mong tìm gặp hoa trắng về tặng em
Cho anh thì thầm em ơi tình mình trắng như hoa đại dương
Trùng khơi nổi gió lênh đênh triền sóng thấy lung linh rừng hoa
Màu hoa thật trắng, ôi hoa nở thắm ngất ngây lòng thêm
Vượt bao hải lý chưa nghe vừa ý, lắc lư con tàu đi
Chỉ thấy bọt nước, tan theo ngọn sóng dáng hoa kia mịt mùng
Biển khơi không mang hoa màu trắng
Tàu anh xa xôi chưa tìm bến
Nên em còn hờn, nên em còn buồn sao chưa thấy anh sang
Em ơi giận hờn, xin như hoa sóng tan trong đại dương”

Ngoài ra, Trần Thiện Thanh còn sáng tác Sư Đoàn I Bộ Binh VNCH Hành Khúc cho đơn vị nầy trấn đóng ở vùng giới tuyến.

“Đây Sư Đoàn 1, đây Sư Đoàn Giới Tuyến
Chiến Sĩ Tiền Phong nơi tuyến đầu Việt Nam
Lam Sơn oai hùng, tay xây đài chiến thắng
Súng thép đập tan quân Bắc phương hung tàn…
Quân Dân chung lòng, vang câu hò chiến thắng
Chiến thắng lừng danh, cao ngất như Trường Sơn
Gian nguy coi thường, ta kiên cường chiến đấu
Quyết chí đập tan quân Bắc phương ngông cuồng”.

*

Trong tâm hồn lãng mạn, đa tình của ca sĩ và nhạc sĩ, Nhật Trường Trần Thiện Thanh có nhiều hệ lụy với cuộc tình. Ngay thời còn đi học, có phải cô nữ sinh (Nhường) là mối tình đầu? và, tiếp đó cô nữ sinh Hồ Mỵ Châu, đẹp nổi tiếng ở Chợ Lầu cùng chàng trai trong mối tình ở trường Ngô Đình Khôi… chỉ là bóng mây.

Bài viết Những Bài Hát Của Một Thời Binh Lửa của Phạm Tín An Ninh ghi lại mẩu chuyện: “Sau mùa hè 1972, đơn vị tôi từ chiến trường Kontum được chuyển về dưỡng quân một tháng tại hậu cứ Sông Mao, Phan Thiết. Trong một đêm văn nghệ do tỉnh Bình Thuận tổ chức ủy lạo chiến sĩ, bất ngờ có sự tham gia của ca sĩ Nhật Trường nhân dịp anh từ Sài Gòn về thăm quê (quê anh ở Phan Thiết). Lúc ấy anh còn trẻ, đẹp trai và hoạt bát. Anh ngồi chung bàn với tôi. Trong lúc tâm tình, khi nghe tôi nói là ngày mai sẽ về thăm vợ ở Ninh Hòa, anh tròn mắt nhìn tôi rồi ghé vào tai tôi nói nhỏ, có một thời anh đã say mê một cô gái Ninh Hòa. Sau đó anh lên sân khấu hát tặng tôi bài Mùa Đông Của Anh, và nhờ tôi chuyển đến cô gái Ninh Hòa nào đó hai câu:

… Xưa hôn em một lần mà đau thương tràn lấp…
Anh yêu em một ngày rồi xa em trọn kiếp…”

Và, trong tình trường, không phải lúc nào cũng toại nguyện, có khi mang lại nỗi đau mà nhạc sĩ tỏ bày trong “Hoa Trinh Nữ” như: “Tôi chỉ là người lính phong trần. Thấy hoa nhớ người yêu rất xa” mà một thời dư luận cho rằng tác giả yêu nàng ca sĩ nhưng nàng chắp cánh với “ông hoàng” ở cao nguyên.

Trên trang mạng traixuviet.wordpress.com ghi lại cuộc tình và cuối đời của Trần Thiện Thanh:

“… Người vợ đầu tiên của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh thành hôn với ông tại Phan Thiết khi ông chưa đầy 20 tuổi, trước khi hai người cùng vào Sài Gòn sau đó. Chị Trần Thị Liên và ông có với nhau 4 người con, 2 trai, 2 gái là Anh Chương, Thanh Trân, Thanh Trúc và Anh Châu. Tuy nhiên hai người đã chia tay nhau một thời gian trước biến cố tháng 4 năm 75.

Trong thời gian còn ở lại Việt Nam sau năm 75, khi thường đi trình diễn chui ở các tỉnh miền Nam, Nhật Trường sống chung với Kim Dung, trước đó cũng là một ca sĩ trong Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương.

Gần gũi nhau trong những lần diễn với nhiều khó khăn đó, họ đã trở thành vợ chồng và vài năm sau hai người có với nhau một con trai tên Anh Chính, (sau nầy theo Nhật Trường sống chung với Mỹ Lan ở Nam California). Nhưng cuộc sống vợ chồng giữa Kim Dung và Nhật Trường cuối cùng cũng đã đi đến đổ vỡ. Và người vợ thứ hai của ông hiện cũng đã có gia đình khác ở Việt Nam.

Vào năm 1993, Nhật Trường Trần Thiện Thanh rời Việt Nam sang Hoa Kỳ theo diện “fiancé” do nữ ký giả Nam Trân bảo lãnh. Tuy nhiên sau đó, lục đục xẩy ra giữa hai người nên tình trạng của Trần Thiện Thanh không được hợp thức hoá theo diện di trú, cho đến khi được người con trai trưởng của ông là Anh Chương, qua Mỹ trước đó và đã có quốc tịch Hoa Kỳ, đứng đơn bảo lãnh.

Tuy vậy tình trạng cư trú của ông vẫn chưa được chấp nhận. Phải đợi mãi cho đến ngày 12 tháng 5 năm 2004, tức 6 tháng trước khi phát hiện ra bệnh ung thư phổi và 1 năm trước khi mất, ông mới bất ngờ nhận được “green card” để có thể đi trình diễn ngoài nước Mỹ.

… Nhật Trường và Mỹ Lan trước khi ra hải ngoại cũng đã biết nhau qua những lần cùng đi diễn ở các tỉnh ở miền tây. Thời đó Mỹ Lan còn là một vũ công thường theo các đoàn hát đi lưu diễn đó đây trong những năm 76, 77. Tuy nhiên giữa hai người chẳng hề có một ấn tượng nào về mặt tình cảm.

Nhưng định mệnh đã đưa đẩy họ đến gần nhau vào năm 1993. Đó là năm Nhật Trường sang Mỹ và cư ngụ tại Nam California vào tháng 3…

… Sau mười mấy năm không hề liên lạc, lần đầu tiên Nhật Trường và Mỹ Lan gặp lại nhau trên đất Mỹ vào ngày 29 tháng 5 năm 1993 trong một chương trình đại nhạc hội do cố ca nhạc sĩ Duy Khánh tổ chức tại Seattle, tiểu bang Washingon. Trước đó, mỗi người có một đời sống gia đình riêng tư phải lo lắng.

… Và từ khoảng giữa thập niên 90, người ta thường thấy tên tuổi Nhật Trường – Mỹ Lan xuất hiện tại các chương trình nhạc hội tổ chức tại nhiều nơi trên đất Mỹ cũng như trong những buổi văn nghệ có tính cách cộng đồng hay từ thiện.

… Mãi đến năm 1985, Mỹ Lan mới bước chân vào con đường đi hát chuyên nghiệp. Đến năm 86, chị bắt đầu được biết đến tên tuổi. Và đến thời kỳ được nhiều người chú ý thì Mỹ Lan cùng chồng con được hai chị Mỹ Hoa và Mỹ Phương bảo lãnh sang Canada. sau khi mẹ và một chị khác là Mỹ Vân đã được bảo lãnh qua đây từ trước. Họ cùng đoàn tụ tại thành phố Montreal vào năm 1988.

Vài năm sau khi cư ngụ tại thành phố này, cuộc hôn nhân giữa Mỹ Lan và người chồng đầu tiên đi đến đổ vỡ sau khi có với nhau 2 con trai…

Sau 12 năm sống với Nhật Trường Trần Thiện Thanh, từ năm 1993 đến khi ông qua đời vì bệnh ung thư phổi (1 giờ 5 phút trưa ngày 13 tháng 5 năm 2005, Nhật Trường Trần Thiện Thanh trút hơi thở cuối cùng)

Với Mỹ Lan, ông có được cháu trai Trần Thiện Anh Chí. Ngoài ra đứa con trai tên Anh Chính với người vợ thứ nhì là Kim Dung cũng ở cùng với ông và Mỹ Lan (lúc mới 8 tuổi).

… Sau khi Nhật Trường Trần Thiện Thanh nằm xuống, dĩ nhiên không ít thì nhiều đã xẩy ra những tranh chấp giữa những người con của người vợ đầu tiên, đặc biệt là người con trai cả của ông với người vợ cuối đời của ông. Đó là những gì đã xẩy ra mà Trần Thiện Thanh đã biết trước.

Tuy nhiên theo Mỹ Lan, chị cho biết nếu những người con của ông làm được những điều chị muốn làm cho Trần Thiện Thanh thì chị sẽ sẵn sàng hợp tác trong việc duy trì và phổ biến những tác phẩm của ông. Nhưng dù thế nào, Mỹ Lan vẫn tiếp tục theo đuổi con đường của mình. Những gì chị đã, đang và sẽ làm, Mỹ Lan cho là đúng và nếu những người con của Nhật Trường Trần Thiện Thanh muốn hợp tác trong cùng mục đích như vậy là một điều rất tốt”.

Ngày 29 tháng 5 năm 2014 Thanh Toàn (TTAC) qua đời tại Texas. Thật ra, khi Trần Thiện Thanh qua đời, vấn đề tranh chấp nhà cửa và bản quyền không có gì trầm trọng vì tình nghệ sĩ trong gia đình với nhau, dành cho đứa con thơ là Trần Thiện Anh Chí và Mỹ Loan là người giám hộ. Thế nhưng có vài tờ báo xé chuyện nầy ra to, làm đau lòng người quá cố! Tuy trải qua 3 đời vợ nhưng Trần Thiện Thanh có tình thần trách nhiệm và quan tâm đến những người con.

Với tài hoa sáng tác của Trần Thiện Thanh, có nhiều bài viết, ca khúc “Trần Thiện Thanh, Dòng Nhạc Một Thời Chinh Chiến” của Thụy Long với lời ca, vinh danh người nằm xuống:

“Xin cám ơn anh, một thời chinh chiến
Tay ôm đàn, ôm súng viết tình ca
Tầm đạn bay xuyên qua từng nốt nhạc
Những trận hành quân để biết nhớ nhà…
Cám ơn anh, cám ơn anh gót giày saut áo trận
Mang vào đời những dấu vết yêu thương
Giọt mồ hôi mặn mà thêm thân phận
Tiếng hát anh làm rung động cả chiến trường.
Những khúc tình ca một thời chinh chiến
Anh viết cho người góa phụ ngây thơ
Cho bà mẹ già chờ tin chiến tuyến
Chưa thấy con về, chưa thấy con về mắt đỏ bơ vơ…”.

Nếu cho rằng sử thi là dòng thơ ghi chép lại giai đoạn lịch sử nào đó thì những ca khúc của Trần Thiện Thanh, có thể nói lời ca của mỗi ca khúc là mỗi bài thơ được bay bổng theo giai điệu của nhạc phẩm qua cung bậc… gom lại thành sử thi của thời chinh chiến.

Khoảng hai trăm ca khúc của Trần Thiện Thanh, có một phần ba mang theo hình ảnh người lính, người yêu của lính khi yêu nhau, lúc nhỏ lệ dưới vành khăn tang.

Nhật Trường Trần Thiện Thanh đã trở về với cát bụi nhưng tiếng hát và nhạc phẩm của anh vẫn tỏa sáng nơi xứ người. Với người lính năm xưa, nhạc và lời của anh vẫn còn vang vọng, bay bổng trong cánh dù, thấp thoáng giữa mây trời, tuyết trắng, bồng bềnh cùng hoa biển với đại dương. Anh là người thiên cổ nhưng “anh không chết đâu anh”: Nhật Trường Trần Thiện Thanh.

Vương Trùng Dương
Little Saigon, Oct 2018

Nguồn: https://www.banvannghe.com/a9829/vuong-trung-duong-nhat-truong-tran-thien-thanh-nguoi-viet-su-thi-cho-nhac-linh

Vương Trùng Dương10/2018Trong bài viết của Trần Doãn Nho về “Nhạc Lính” đã ghi nhận: “Có khá nhiều tác giả viết về người lính: Y Vân, Trần Thiện Thanh, Nhật Ngân, Nguyễn Văn Đông, Lê Dinh, Anh Bằng, Minh Kỳ, Hoài Linh, Huỳnh Anh, Phạm Thế Mỹ, Đinh Miên Vũ, Phạm Đình Chương, Tuấn Khanh, Lam Phương, Trúc Phương, Trầm Tử Thiêng, Nguyên Đàm, Nguyên Diệu, Phan Trần… Trong số đó, Trần Thiện Thanh là nhạc sĩ viết nhiều nhất…”. Còn có thêm Văn Giảng (Nguyên Đàm), Song Ngọc, Anh Thy, Duy Khánh, Mạnh Phát, Nhật Lệ, Hùng Cường, Mạc Phong Linh… hay Anh Việt Thu (cùng làm việc chung với Nhật Trường ở Phòng Văn Nghệ, Cục Tâm lý Chiến và Đài Phát thanh Quân Đội) nhưng chỉ có một vài bài.Nói đến Nhật Trường Trần Thiện Thanh, liên tưởng đến nhạc lính và ngược lại. Sáng tác nhạc tình của Trần Thiện Thanh trong thời chinh chiến để làm thăng hoa hình ảnh người lính VNCH từ chiến trường đến hậu phương. Những ca khúc của anh không những in sâu vào tâm hồn người lính mà đi vào lòng mọi người từ thời binh lửa cho đến nay.Trần Thiện Thanh sinh ngày 12 tháng 6 năm 1942 tại Phan Thiết. Trưởng nam trong gia đình có 7 anh em. “Thật sự dòng họ Trần Thiện từ ông tổ gần là Trần Thiện Chánh (1822-1874), tài kiêm văn vỏ, cho tới thân phụ của Trần Thiện Thanh là Trần Thiện Hải nức tiếng khắp Phan Thiết là kẻ tài hoa, đủ đường ca hát, đóng kịch, soạn nhạc… cho nên ảnh hưởng tới con cháu như Nhật Trường là điều không ai phủ nhận…” (Hồ Đinh, bút hiệu Mường Giang, người bạn cùng thời tiểu học với Trần Thiện Thanh).Ngoài bút hiệu Nhật Trường, thỉnh thoảng đề tên Anh Chương (tên trưởng nam của anh với các ca khúc của như Tuyết Trắng, Chân Trời Tím (phổ thơ Nguyễn Văn Hạnh), Hãy Trả Lời Em, Tâm Sự Người Lính Trẻ, Ngày Đầu Một Năm, Người Yêu Của Lính…). Sau nầy Trần Thiện Anh Chương ở Hoa Kỳ làm truyền thông với bút hiệu Thanh Toàn (Trần Thiện Thanh Toàn là chú ruột).Anh cũng dùng bút hiệu Thanh Trân Trần Thị (tên con gái thứ nhì) qua một số nhạc phẩm khác như Chuyện Hẹn Hò, Phút Giao Mùa, Chuyện Lứa Đôi…(Có một số bài hát nổi tiếng như Tình Đầu Tình Cuối, Tình Thiên Thu, Bắc Đẩu, Mầu Mũ Anh Mầu Áo Em, Tình Có Như Không… nhiều người nghĩ là của Trần Thiện Thanh, nhưng thật ra, đã được in với tên Trần Thiện Thanh Toàn, Thiếu Úy QLVNCH, em ruột Trần Thiện Thanh, hy sinh trên chiến trận khi còn trẻ. Ca khúc Trên Đỉnh Mùa Đông là sáng tác của hai anh em).Theo lời người bạn Lê Hùng (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 341 Địa Phương Quân, tiểu khu Bình Tuy) học lớp Đệ Nhị cùng với Nhật Trường Trần Thiện Thanh ở trường trung học Ngô Đình Khôi niên khóa 1960-1961 ở Phan Thiết. Nhật Trường vừa là Trưởng Ban Văn Nghệ và cũng là cầu thủ (thủ môn) đội túc cầu của nhà trường.Thân phụ Nhật Trường là Trần Thiện Hải, Trưởng Ty Thông Tin Bình Thuận, với môi trường đó qua chương trình phát thanh và văn nghệ cũng tạo thuận lợi cho Trần Thiện Thanh ca hát để giải trí. Trước đó, lúc còn nhỏ, Nhật Trường Trần Thiện Thanh (cũng như Song Ngọc ở Long Xuyên) đã tham gia trong Ban Văn Nghệ 860 của Bảo An Đoàn ở Bình Thuận, có Mỹ Thể, Nguyễn Hữu Sáng (em Nguyễn Hữu Thiết, gốc Quảng Trị, sinh tại Phan Thiết)…Vì đam mê với kiếp cầm ca nên con đường học vấn bị dang dở và trong cái rủi có cái may khi rời quê nhà vào Sài Gòn để lập nghiệp… (Có vài bài viết cho biết năm 1958 Nhật Trường vào Sài Gòn lập nghiệp nhưng theo người bạn cho tôi biết cùng học với Trần Thiện Thanh ở Phan Thiết, sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp (1958), vào Sài Gòn học, thỉnh thoảng xuất hiện ca hát vào dịp cuối tuần ở Phan Thiết. Có lẽ vào Sài Gòn học vì chặng đường Sài Gòn – Phan Thiết khoảng hai trăm km, đi về dễ dàng và thời điểm đó).Đầu thập niên 1960, Nhật Trường lập ban Tứ Ca Nhật Trường gồm anh và 3 nữ ca sĩ: Như Thủy (em gái), Vân Quỳnh và Diễm Chi. Băng nhạc Tiếng Hát Đôi Mươi trình bày nhiều ca khúc về lính, được nhiều người ái mộ.Góp mặt trong nền tân nhạc ở Sài Gòn qua các nhạc phẩm: Đừng Hỏi Tại Sao (1963), Anh Về Với Em (1964), Bảy Ngày Đợi Mong (1964), Đôi Ngã Đôi Ta (1964), Một Ngày Gần Đây (1964), Ngày Anh Đi (1964), Hàn Mặc Tử (1964), Đồn Vắng Chiều Xuân (1964), Không Bao Giờ Ngăn Cách (1964), Nỗi Lòng Thanh Trúc (1964), Từ Đó Em Buồn (1964), Tình Yêu Thứ Nhất (1965), Người Yêu Của Lính (1965), Tâm Sự Mộng Cầm (1965), Một Đời Yêu Anh (1965), Đời Còn Nhiều Gian Dối (1965)…Nhật Trường Trần Thiện Thanh tuy chưa vào lính nhưng đã sáng tác vài ca khúc nổi tiếng như Anh Về Với Em, Ngày Anh Đi, Không Bao Giờ Ngăn Cách, Đồn Vắng Chiều Xuân… Và, ca khúc Người Yêu Của Lính gắn liền với tiếng hát Ngọc Minh. Trước khi vào lính, Nhật Trường xuất hiện trên sân khấu và truyền hình với quân phục VNCH.Năm 1965 nhập ngũ, Hạ Sĩ Quan phục vụ trong ngành Chiến Tranh Chính Trị. Đây cũng là môi trường của Trần Thiện Thanh khi “khoác áo treillis” sáng tác rất nhiều nhạc phẩm với các quân bnh chủng Hải, Lục, Không Quân VNCH.Đề cập đến nhạc lính như lời Trần Doãn Nho:“Lính ở đây là lính VNCH. Trong suốt những tháng năm dài chinh chiến, người lính là hình ảnh nổi bật trong cuộc sống, gắn chặt với cuộc chiến, diễn ra từng ngày từng giờ trên khắp đất nước. Gia đình nào, không ít thì nhiều, cũng đều có thân nhân nằm trong quân đội. Những thắng, bại trên chiến trường của người lính đều nhất nhất ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người. Và bi kịch của chiến tranh gắn liền với bi kịch cá nhân của từng người lính…Nhạc lính, trước hết, nói về người lính, đã hẳn. Mà cũng là nói về chiến tranh. Về một xã hội vùng vẫy để tồn tại, để thích nghi với hoàn cảnh bom đạn. Và mơ ước. Những gian khổ, nhọc nhằn, vất vả, tiếc nuối, buồn chán, thất vọng, cay đắng, tủi nhục cùng với ước mơ – những gì vô cùng đời thường, vô cùng dân dã, tất cả đều được bày tỏ qua lời ca mà không cần phải sử dụng một ẩn dụ xa xôi nào. Do đó, khác với nhạc đỏ – thứ nhạc để chỉ nhạc Cộng Sản nói chung thường mang tính tuyên truyền – nhạc lính đầy tính cách nỗi niềm và mang tính nhân bản rõ nét.… Đặc biệt, khác với nhạc đỏ, nhạc lính không nhằm gây căm thù. Không những thế, trong một số trường hợp, còn kêu gọi xóa bỏ căm thù, kêu gọi tình thương, kêu gọi hòa bình. Lời ca phần lớn và chủ yếu nói về nhiệm vụ, về lòng hăng say, sự hy sinh, ca ngợi sự chịu đựng gian khổ và lòng quả cảm của người lính. Và ngay cả khi đề cập đến cái chết anh hùng của những người sĩ quan chỉ huy trên chiến trường, ta cũng không hề thấy khêu gợi chút căm thù nào. Chỉ nói về cái chết, về sự hy sinh và nỗi tiếc thương…Nhạc lính đồng thời cũng là nhạc tình. Cũng là nhạc quê hương. Nói về lính cũng chỉ để nói về tình. Mặt khác, trong một số bản tình ca thuần túy, hình ảnh người lính cũng hiện diện. Có lẽ vì đời lính, tự bản chất, chứa đựng sự xa cách, nhớ mong, niềm tuyệt vọng và bi kịch tình yêu…… Trong khi còn chiến tranh, nhạc lính được hát như một bày tỏ nỗi lòng, có khi như một bù đắp, của những người khoác chiến y…”(Trần Doãn Nho).Từ giã mái trường, từ giã người yêu khi, chàng trai trẻ đáp tiếng gọi của non sông, với nghĩa vụ tòng quân:“Ngày anh đi, ngày anh đi phượng rơi rơi ngàn lốiÁo chinh nhân ép cánh thư ngày nàoGửi cho nhau lúc mới quen lần đầuNgày anh đi ngày anh đi sông hồ in dáng em… Nếu anh là chiến sĩ đi xây đắp tương laiEm là người ở lại muôn đời đợi chờ anh.”Khi khoác áo chiến y, người yêu nơi hậu phương lúc nào cũng mong đợi lá thư từ đơn vị xa xôi nên dặn dò. Ca khúc “Nhớ Viết Thư Cho Em” qua tiếng hát của Lệ Thanh trên làn sóng phát thanh quá hay, nghe mà ngớ ngẩn, nghe mà ước mong có người yêu dễ thương như vậy để xoa dịu tâm hồn người lính:“Nhớ viết thư cho emmà bảo rằng dù xa cách đừng quênNhớ viết thư cho emdù mực nhòe trên trang giấy trắngEm biết đời phong sươnganh đã chôn dĩ vãng trong timSống vui hiện tại và trọn đời anh cho tương laiNhớ viết thư cho emđể rạng ngời thêm trăng sáng nửa đêmNhớ hái đôi hoa sim đặt vào lòng tờ thư thương mếnEm muốn màu hoa simnhư màu yêu tím của đôi taTím lên cuộc đời mà lòng ta thương mến nhau hoài”(Trần Thiện Thanh & Mạnh Phát)Ca khúc “Tình Thư Của Lính” thay cho lời tâm sự của người lính gởi cho người tình:“Từ khi anh thôi học, và từ khi anh khoác áo treillisTừ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây… Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em.Thư của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa tình.Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngaỵNhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy”.Ca khúc “Tâm Sự Người Lính Trẻ” của Trần Thiện Thanh chia sẻ nỗi niềm:“Từ khi anh thôi học từ khi đôi lứa đôi đườngTừ sông ngăn núi trở tạ từ không nói nên lờiTừ khi gót sông hồ ngược xuôi ôi những đêm thật dài hồn nghe thương nhớ aiMột năm tìm vui nơi quan tái chưa về một lần dù chỉ một lần thôi”.Trong thời binh lửa, qua vài ca khúc trữ tình nầy, cảm nhận cuộc tình thật lãng mạn, dễ thương, quá đẹp khi xa nhau. Câu nói của Stefan Zweig “Dù cho biển cách núi ngăn, lòng hai ta cũng mãi không rời xa” đã thể hiện ở ca khúc Trần Thiện Thanh.Bài thơ “Cần Thiết” của Nguyên Sa đã một thời thay cho lá thư tình của tuổi học trò:“Không có anh lấy ai đưa em đi học vềLấy ai viết thư cho em mang vào lớp họcAi lau nước mắt cho em ngồi khócAi đưa em đi chơi trong chiều mưa”Thì ca khúc của Trần Thiện Thanh chia sẻ hình ảnh giữa người lính với người yêu sự “cần thiết” đó thật đáng yêu:“Nếu em không là người yêu của línhEm sẽ nhớ ai Chủ Nhật trời xinhEm sẽ nhớ ai đêm sương lạnh lùngVà giữa chốn muôn trùngAi viết tên em lên tay súng.Nếu em không là người yêu của línhAi sẽ nhớ em chiều dừng hành quânAi khẽ nhắc tên em muôn nghìn lầnĐể thấy cánh sao gầnKhông đẹp bằng hồ mắt giai nhân”(Người Yêu Của Lính)Người lính khó giữ đúng hẹn hò vì có khi vào giờ phút cuối phải thi hành nhiệm vụ của đơn vị đảm trách. Trong tình yêu phải có sự cảm thông cho nhau nên:“Anh hẹn em cuối tuầnChờ anh nơi cuối phốBiết anh thích màu trờiEm đã bồi hồi chọn màu áo xanh”Thế rồi qua 7 ngày đợi mong, không gặp người tình và cuối cùng:“Chiều Thứ Bảy mưa rơiAi bảo anh lại tớiAi bảo anh xin lỗiAi bảo anh nhiều lời cho mắt em lệ rơi”(Bảy Ngày Đợi Mong)Lời trách yêu đó thật nhẹ nhàng, “lệ rơi” khi gặp nhau mà không cần xin lỗi, không cần nhiều lời… Lời ca đó dành cho người thưởng thức cảm nhận.Những người lính Mỹ (GI) tham chiến ở chiến trường VN, thường viết trên nón sắt “When I die I will go to heaven because I live in hell” (Khi tôi chết sẽ lên thiên đàng vì sống trong địa ngục) như “than thân trách phận” nhưng với Trần Thiện Thanh thì ngược lại:“Viết tên người yêu lên ba lô nặng trĩuĐêm quân hành dừng chân đồi hoa tímNhớ xưa đôi mình hẹn nhau mà sao sángĐâu bằng đôi mắt em…Áo anh nhuộm phong sương nhưng quê hương đẹp ýLối trăng đầy tình em còn soi sángSẽ không bao giờKhông bao giờ ngăn cách đâu em”(Không bao Giờ Ngăn Cách)Chỉ có người lính nhớ người yêu mới viết tên trên ba lô, tâm hồn lãng mạn của người lính làm đẹp chân dung người tình trong cơn binh lửa.Nhạc phẩm “Màu Mũ Anh Màu Áo Em”, Trần Thiện Thanh phác họa chân dung người lính của các binh chủng với người yêu:“Khi em đã yêu anh chàng lính Thuỷ Quân Lục ChiếnBạc màu áo trận, bạc luôn cả chiếc mũ xanhKhi em đã yêu anh chàng áo rằn sọc ngangMàu áo xanh rừng em nhớ mang.Hay em đã yêu anh chàng lính Dù là anhDù tung giữa trời và địa cầu dâng đất lênKhi em biết yêu thiên thần mũ đỏ dù hoaMàu áo bông hồng em nhớ cho…Khi em dám yêu anh bộ binh nghèo là anhThì màu áo vàng là màu tình duyên đó anhXin cho tháng năm không làm phai màu tình yêuMàu mũ anh và màu áo emKhi em đã yêu anh chàng lính biển là anhTầu đi bến nào còn tình thì qua bến naoKhi em đã yêu anh chàng lính Hải Quân hào hoaMàu trắng mây trời trên áo em.Hay em đã yêu anh chàng lính Biệt Động QuânMà rừng núi sình lầy nào còn vương gót anhKhi em đã yêu trên trời núi thẳm rừng sâuMàu mũ nâu là màu áo em”Để tưởng nhớ và tri ân những người con thân yêu của tổ quốc khi dấn thân trong binh nghiệp bảo vệ lý tưởng Quốc Gia, Dân Tộc. Thân xác không còn nhưng qua các ca khúc của Trần Thiện Thanh luôn gợi lại hình ảnh bi hùng, cao cả trong trái tim mọi người.Hình ảnh hào hùng của cố Đại Úy Nguyễn Văn Đương của binh chủng Nhảy Dù hy sinh trong cuộc chiến qua ca khúc “Anh Không Chết Đâu Anh” của Trần Thiện Thanh góp phần hình ảnh cao đẹp trong Quân Sử VNCH.Phan Nhật Nam tường thuật lại:“… Đồi 31 ở mặt trận Hạ Lào, tháng Hai, 1971.. Đại quân Miền Nam gồm: Sư Đoàn Nhẩy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn I Bộ Binh, Lữ Đoàn I Thiết Kỵ, và Liên Đoàn I Biệt Động Quân cùng vượt biên giới Lào-Việt tiến đánh vùng hậu cần Tchépone của cộng sản Bắc Việt trên đất Lào. Lữ Đoàn 3 Dù gồm các Tiểu Đoàn 2, 3, và 8 giữ mặt Bắc của trục tiến quân. Vị trí Đồi 31 của Tiểu Đoàn 3 Dù được Pháo Đội B3 Pháo Binh Dù do Đại Úy Nguyễn Văn Đương chỉ huy yểm trợ. Vòng đai cực Bắc của Biệt Động Quân bị tấn công trước; tiếp vị trí Đồi 30 của Tiểu Đoàn 2 Dù bị công phá.. Cuối cùng, chỉ còn lại Căn Cứ Đồi 31 giữa vòng vây của một sư đoàn Bắc Việt (tỷ lệ 1 chống 15). Ngày 25/2, Đồi 31 bị tràn ngập, Đại Tá Nguyễn Văn Thọ và toàn ban tham mưu lữ đoàn đồng bị bắt, căn cứ chỉ còn khẩu pháo cuối cùng, Đại Úy Đương hạ ngang nòng bắn thẳng vào toán quân cộng sản theo xe tăng T54 ào lên đồi chiếm mục tiêu, và ông gục ngã với khẩu pháo cuối cùng bị phá hủy…”Trong cuốn hồi ký “Một Cánh Hoa Dù” của Thiếu Tá Trương Dưỡng đã kể lại thời điểm căn cứ hỏa lực 31 Hạ Lào (cao điểm 456) vào 6 giờ 30 phút ngày 25 tháng 2 năm 1971, như sau:“Ngay chiều hôm đó đồi 31 bị tràn ngập, tôi nghe tiếng Nguyễn Quốc Trụ, bạn cùng khóa, gọi Kiệt bên căn cứ A-Lưới là: “Xe tăng Việt Cộng đang trên hầm chỉ huy, mầy nói pháo binh bắn lên đầu tao, chờ tụi nó xuống tao sẽ tự tử, vĩnh biệt mầy, Kiệt ơi.” Căn cứ hỏa lực 31 thất thủ, bên trong gồm Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, BCH Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh, Pháo Đội 33 của Nguyễn Văn Đương…”. Và, người hùng Pháo Đội Trưởng Nguyễn Văn Đương chấp nhận hy sinh để khỏi lọt vào tay Cộng quân.Trần Thiện Thanh viết lên lời ca vô cùng xúc động:“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mũ đỏ tên ĐươngTôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máuNghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mauVà tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi…… Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranhĐâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anhTrong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm mầuÔi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anhKhông, anh không, anh không chết đâu em, anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm quaTôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớTrên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ânGiọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh …”Ca khúc “Anh Không Chết Đâu Anh” là một trong những ca khúc được trình bày trong một bộ phim truyền hình có tên là “Trên Đỉnh Mùa Đông” do Trần Thiện Thanh làm đạo diễn, ra mắt vào năm 1972.Trong bộ phim này, còn nhiều ca khúc bất hủ nữa của Trần Thiện Thanh cũng được hát: Trên Đỉnh Mùa Đông, Mùa Đông Của Anh, Chiều Trên Phá Tam Giang… Cuốn phim đã làm rơi lệ của biết bao nhiêu khán giả, đã mô tả được phần nào cái chết bi hùng của Đại Úy Nguyễn Văn Đương tại chiến trường Hạ Lào, trong chiến dịch hành quân Lam Sơn 719.Đồi Charlie với cao độ 900 mét, Tây Bắc tỉnh Kon Tum, một cứ điểm quân sự để kiểm soát cả một vùng rộng lớn ngã ba Đông Dương… Địa danh này nổi tiếng với nhiều trận giao chiến khốc liệt giữa Quân Lực VNCH và đồng minh Hoa Kỳ với Cộng quân.Ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân. Đơn vị thiện chiến nầy nhảy ngay trên đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, lúc này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót. Trung Tá Nguyễn Đình Bảo cùng Đại Đội chỉ huy và Đại Đội 110 trấn giữ ngọn đồi, 3 Đại Đội còn lại đóng chung quanh ngọn đồi. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn Nhảy Dù đóng ở xa vài chục cây số để yểm trợ.Cộng quân dốc toàn bộ toàn bộ pháo kích vào Charlie thật nặng, mỗi ngày hàng ngàn quả đại bác 130 ly, 122 ly và cả hỏa tiễn 122 ly…Cộng quân gia tăng quân số dù hàng ngàn cán binh trẻ từ miền Bắc đã bị nướng thiêu trong bom đạn nhưng họ vẫn ngông cuồng thí quân bao vây ngọn đồi Charlie. Dùng trận đánh “biển người” này, hầm chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo đã lãnh trọn 1 trái đạn pháo 130 ly và anh đã hy sinh! Sau 4 ngày đêm chiến đấu, ngọn đồi Charlie đã bị mất, cộng quân tràn ngập. Xác chết của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo tuy đã gói trong 3 lớp vải dù poncho nằm lại ở giao thông hào mà cũng bị bom đạn của quân ta trút xuống đánh bật Cộng quân, cày nát xác thân anh. Charlie đã tan tành, chung quanh chỉ là khói tro quyện với thây người chết của cả hai bên.Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo hy sinh tại Charlie ngày 12 tháng 4 năm 1972 khi vừa đúng 35 tuổi.Ca khúc “Người Ở Lại Charlie” của Trần Thiện Thanh, một trong những ca khúc được nhiều người ngưỡng mộ với người chiến sĩ VNCH:“Anh! Anh! Hỡi anh ở lại CharlieAnh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khíVâng, chính anh là ngôi sao mớiMột lần này chợt sáng trưngLà cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng…Ngày anh đi, anh đi anh đi từ tổ ấmAnh ơi, địa danh nào thiếu dấu chân anh?…Toumorong, Dakto, Krek, SnoulTrưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâuAnh! Cũng anh vừa ở lại một mình, vừa ở lại một mìnhCharlie, tên vẫn chưa quen người dân thị thành…Xin một lần thôi, một lần thôiVẫy tay tạ từ CharlieXin một lần nữa, một lần nữaVẫy tay chào buồn anh đi”.Với binh chủng Thiết Giáp, nhạc phẩm “Bắc Đẩu” của Trần Thiện Thanh và Trần Thiện Thanh Toàn ghi: Tặng anh hùng mũ đen Bắc Đẩu Nguyễn Ngoc Bích”. Cố Đại Úy Nguyễn Ngọc Bích, Chi Đoàn Trưởng CĐ 2, Thiết Đoàn 18:“Người bỗng trở thành vì sao Bắc ĐẩuLẻ loi tinh cầu đêm đen không dấuMột tối chớm hè đạn pháo chuyển mưaCây Cầu Ga nhỏ anh qua, anh qua…Xin muôn năm như vì sao sáng đóHỡi người định mệnh là vì sao lẻDậy đi Bắc Đẩu, dậy đi Bắc ĐẩuBừng mắt dậy soi sáng thiên thu…Người tên Bắc Đẩu chết trận La VangLiệm xác ba lần Ngọc bích cũng tanChỉ còn vì sao thôi, chỉ còn vì sao thôi”Danh hiệu Bắc Đẩu là đặt lệnh truyền tin của anh Nguyễn Ngọc Bích. Trường hợp Trần Thiện Thanh sáng tác ca khúc nầy theo lời kể của anh Lê Văn Mạnh (Thiếu Tá kỵ binh) cho biết, trong buổi gặp nhau ở quán nhậu tại Sài Gòn, Trần Thiện Thanh thấy hai vị Thiếu Tá kỵ binh Trần Hữu Thành và Lê Văn Nho ngồi uống beer với nhau, hai người nhưng có 3 ly, mỗi khi uống rót beer vào 3 ly rồi thay phiên nhau uống ly beer người vắng mặt. Trần Thiện Thanh thấy lạ nên đến hỏi cho biết “sự tình”. Khi ở chung đơn vị, 3 anh em thường có nhau, nay một người đã mất, để tưởng nhớ người bạn không còn nhau nữa nên lúc nào cũng vậy. Cảm tính tình chiến hữu với nhau nên ca khúc “Bắc Đẩu” hình thành…Ca khúc Rừng Lá Thấp, Trần Thiện Thanh viết cho người bạn cùng quê ở Phan Thiết, Đại Úy Vũ Mạnh Hùng trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, đã hy sinh khi chận quân địch tại Hàng Xanh, Cầu Bình Lợi trong trận Mậu Thân!Đại Úy phi công Trần Thế Vinh, đã vị quốc vong thân trên vùng trời Trị Thiên ngày 9 tháng 4 năm 1972. Ca khúc “Bay Lên Cao Đi Anh” của Trần Thiện Thanh không than khóc, ủy mị mà vẽ lên nét hào hùng chiến sĩ Không Quân:“… Cao bay lên cao, bay lên cao đi anhNhư trong kỷ niệm, anh đạp gió xé mây trôiCao bay lên cao, bay lên cao đi anhXin linh hồn anh, lên trời cao bay thật mauXin cho cao thêm cho thêm lên cao lênCao câu nguyện cầu cho tuổi trẻ sớm đi xaXin cho cao lên cho cao lên cao lênHãy ngước nhìn không gian Việt Nam cao diệu vợi… Bay lên bay lên cao đi anhMang theo hào hùng cho cuồng bão biết xôn xaoBay lên bay lên cao, bay lên cao đi anhThế giới chìm sâu anh vừa qua còn mộng duCao bay lên, cao bay lên cao, đi anhXin linh hồn anh lên thật cao lên thật nhanh”Với Không Quân và Hải Quân, Trần Thiện Thanh tô đẹp biết bao hình ảnh của quân chủng nầy. Ca khúc Tuyết Trắng, Trần Thiện Thanh dùng hình ảnh mây trời như tuyết, quá tuyệt:“Đây áo bay màu xanh xanh như tình áiThắt lại khăn ấm chính em đanKhi gió quay cuồng sau cánh bayCon tàu thét gầm cho tim ngất ngâyPhi đạo chạy dài anh cất cánh bay lên…Ngả nghiêng cánh chim con tàu sẽ rời, rời xa thành phố rồiMây giăng thật thấp mây đan lụa trắng mây pha màu nắng.Vượt cao vút cao mây trời kết thành một vùng tuyết trắng ngầnTuyết ơi xin nhuộm trắng trong tâm hồn em gái nhỏ tôi thương.Khi nắng chiều đi không gian chợt tốiXóa nhòa vùng tuyết trắng mông mênhAnh ước sao tình mình như tuyết trinhCho dù chúng mình không gian cách ngănCho dù tuyết trắng đã chìm trong màn đêm”.Nhạc phẩm Hoa Biển của Trần Thiện Thanh và Anh Thy, đại lễ và quân phục của quân chủng, thủy thủ màu trắng, sóng biển màu trắng… tất cả đều là màu trắng giữa đại dương, màu hoa biển:“… Tại em suy tư bên bờ vắngNên đêm vượt trùng anh mong tìm gặp hoa trắng về tặng emCho anh thì thầm em ơi tình mình trắng như hoa đại dươngTrùng khơi nổi gió lênh đênh triền sóng thấy lung linh rừng hoaMàu hoa thật trắng, ôi hoa nở thắm ngất ngây lòng thêmVượt bao hải lý chưa nghe vừa ý, lắc lư con tàu điChỉ thấy bọt nước, tan theo ngọn sóng dáng hoa kia mịt mùngBiển khơi không mang hoa màu trắngTàu anh xa xôi chưa tìm bếnNên em còn hờn, nên em còn buồn sao chưa thấy anh sangEm ơi giận hờn, xin như hoa sóng tan trong đại dương”Ngoài ra, Trần Thiện Thanh còn sáng tác Sư Đoàn I Bộ Binh VNCH Hành Khúc cho đơn vị nầy trấn đóng ở vùng giới tuyến.“Đây Sư Đoàn 1, đây Sư Đoàn Giới TuyếnChiến Sĩ Tiền Phong nơi tuyến đầu Việt NamLam Sơn oai hùng, tay xây đài chiến thắngSúng thép đập tan quân Bắc phương hung tàn…Quân Dân chung lòng, vang câu hò chiến thắngChiến thắng lừng danh, cao ngất như Trường SơnGian nguy coi thường, ta kiên cường chiến đấuQuyết chí đập tan quân Bắc phương ngông cuồng”.Trong tâm hồn lãng mạn, đa tình của ca sĩ và nhạc sĩ, Nhật Trường Trần Thiện Thanh có nhiều hệ lụy với cuộc tình. Ngay thời còn đi học, có phải cô nữ sinh (Nhường) là mối tình đầu? và, tiếp đó cô nữ sinh Hồ Mỵ Châu, đẹp nổi tiếng ở Chợ Lầu cùng chàng trai trong mối tình ở trường Ngô Đình Khôi… chỉ là bóng mây.Bài viết Những Bài Hát Của Một Thời Binh Lửa của Phạm Tín An Ninh ghi lại mẩu chuyện: “Sau mùa hè 1972, đơn vị tôi từ chiến trường Kontum được chuyển về dưỡng quân một tháng tại hậu cứ Sông Mao, Phan Thiết. Trong một đêm văn nghệ do tỉnh Bình Thuận tổ chức ủy lạo chiến sĩ, bất ngờ có sự tham gia của ca sĩ Nhật Trường nhân dịp anh từ Sài Gòn về thăm quê (quê anh ở Phan Thiết). Lúc ấy anh còn trẻ, đẹp trai và hoạt bát. Anh ngồi chung bàn với tôi. Trong lúc tâm tình, khi nghe tôi nói là ngày mai sẽ về thăm vợ ở Ninh Hòa, anh tròn mắt nhìn tôi rồi ghé vào tai tôi nói nhỏ, có một thời anh đã say mê một cô gái Ninh Hòa. Sau đó anh lên sân khấu hát tặng tôi bài Mùa Đông Của Anh, và nhờ tôi chuyển đến cô gái Ninh Hòa nào đó hai câu:… Xưa hôn em một lần mà đau thương tràn lấp…Anh yêu em một ngày rồi xa em trọn kiếp…”Và, trong tình trường, không phải lúc nào cũng toại nguyện, có khi mang lại nỗi đau mà nhạc sĩ tỏ bày trong “Hoa Trinh Nữ” như: “Tôi chỉ là người lính phong trần. Thấy hoa nhớ người yêu rất xa” mà một thời dư luận cho rằng tác giả yêu nàng ca sĩ nhưng nàng chắp cánh với “ông hoàng” ở cao nguyên.Trên trang mạng traixuviet.wordpress.com ghi lại cuộc tình và cuối đời của Trần Thiện Thanh:“… Người vợ đầu tiên của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh thành hôn với ông tại Phan Thiết khi ông chưa đầy 20 tuổi, trước khi hai người cùng vào Sài Gòn sau đó. Chị Trần Thị Liên và ông có với nhau 4 người con, 2 trai, 2 gái là Anh Chương, Thanh Trân, Thanh Trúc và Anh Châu. Tuy nhiên hai người đã chia tay nhau một thời gian trước biến cố tháng 4 năm 75.Trong thời gian còn ở lại Việt Nam sau năm 75, khi thường đi trình diễn chui ở các tỉnh miền Nam, Nhật Trường sống chung với Kim Dung, trước đó cũng là một ca sĩ trong Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương.Gần gũi nhau trong những lần diễn với nhiều khó khăn đó, họ đã trở thành vợ chồng và vài năm sau hai người có với nhau một con trai tên Anh Chính, (sau nầy theo Nhật Trường sống chung với Mỹ Lan ở Nam California). Nhưng cuộc sống vợ chồng giữa Kim Dung và Nhật Trường cuối cùng cũng đã đi đến đổ vỡ. Và người vợ thứ hai của ông hiện cũng đã có gia đình khác ở Việt Nam.Vào năm 1993, Nhật Trường Trần Thiện Thanh rời Việt Nam sang Hoa Kỳ theo diện “fiancé” do nữ ký giả Nam Trân bảo lãnh. Tuy nhiên sau đó, lục đục xẩy ra giữa hai người nên tình trạng của Trần Thiện Thanh không được hợp thức hoá theo diện di trú, cho đến khi được người con trai trưởng của ông là Anh Chương, qua Mỹ trước đó và đã có quốc tịch Hoa Kỳ, đứng đơn bảo lãnh.Tuy vậy tình trạng cư trú của ông vẫn chưa được chấp nhận. Phải đợi mãi cho đến ngày 12 tháng 5 năm 2004, tức 6 tháng trước khi phát hiện ra bệnh ung thư phổi và 1 năm trước khi mất, ông mới bất ngờ nhận được “green card” để có thể đi trình diễn ngoài nước Mỹ.… Nhật Trường và Mỹ Lan trước khi ra hải ngoại cũng đã biết nhau qua những lần cùng đi diễn ở các tỉnh ở miền tây. Thời đó Mỹ Lan còn là một vũ công thường theo các đoàn hát đi lưu diễn đó đây trong những năm 76, 77. Tuy nhiên giữa hai người chẳng hề có một ấn tượng nào về mặt tình cảm.Nhưng định mệnh đã đưa đẩy họ đến gần nhau vào năm 1993. Đó là năm Nhật Trường sang Mỹ và cư ngụ tại Nam California vào tháng 3…… Sau mười mấy năm không hề liên lạc, lần đầu tiên Nhật Trường và Mỹ Lan gặp lại nhau trên đất Mỹ vào ngày 29 tháng 5 năm 1993 trong một chương trình đại nhạc hội do cố ca nhạc sĩ Duy Khánh tổ chức tại Seattle, tiểu bang Washingon. Trước đó, mỗi người có một đời sống gia đình riêng tư phải lo lắng.… Và từ khoảng giữa thập niên 90, người ta thường thấy tên tuổi Nhật Trường – Mỹ Lan xuất hiện tại các chương trình nhạc hội tổ chức tại nhiều nơi trên đất Mỹ cũng như trong những buổi văn nghệ có tính cách cộng đồng hay từ thiện.… Mãi đến năm 1985, Mỹ Lan mới bước chân vào con đường đi hát chuyên nghiệp. Đến năm 86, chị bắt đầu được biết đến tên tuổi. Và đến thời kỳ được nhiều người chú ý thì Mỹ Lan cùng chồng con được hai chị Mỹ Hoa và Mỹ Phương bảo lãnh sang Canada. sau khi mẹ và một chị khác là Mỹ Vân đã được bảo lãnh qua đây từ trước. Họ cùng đoàn tụ tại thành phố Montreal vào năm 1988.Vài năm sau khi cư ngụ tại thành phố này, cuộc hôn nhân giữa Mỹ Lan và người chồng đầu tiên đi đến đổ vỡ sau khi có với nhau 2 con trai…Sau 12 năm sống với Nhật Trường Trần Thiện Thanh, từ năm 1993 đến khi ông qua đời vì bệnh ung thư phổi (1 giờ 5 phút trưa ngày 13 tháng 5 năm 2005, Nhật Trường Trần Thiện Thanh trút hơi thở cuối cùng)Với Mỹ Lan, ông có được cháu trai Trần Thiện Anh Chí. Ngoài ra đứa con trai tên Anh Chính với người vợ thứ nhì là Kim Dung cũng ở cùng với ông và Mỹ Lan (lúc mới 8 tuổi).… Sau khi Nhật Trường Trần Thiện Thanh nằm xuống, dĩ nhiên không ít thì nhiều đã xẩy ra những tranh chấp giữa những người con của người vợ đầu tiên, đặc biệt là người con trai cả của ông với người vợ cuối đời của ông. Đó là những gì đã xẩy ra mà Trần Thiện Thanh đã biết trước.Tuy nhiên theo Mỹ Lan, chị cho biết nếu những người con của ông làm được những điều chị muốn làm cho Trần Thiện Thanh thì chị sẽ sẵn sàng hợp tác trong việc duy trì và phổ biến những tác phẩm của ông. Nhưng dù thế nào, Mỹ Lan vẫn tiếp tục theo đuổi con đường của mình. Những gì chị đã, đang và sẽ làm, Mỹ Lan cho là đúng và nếu những người con của Nhật Trường Trần Thiện Thanh muốn hợp tác trong cùng mục đích như vậy là một điều rất tốt”.Ngày 29 tháng 5 năm 2014 Thanh Toàn (TTAC) qua đời tại Texas. Thật ra, khi Trần Thiện Thanh qua đời, vấn đề tranh chấp nhà cửa và bản quyền không có gì trầm trọng vì tình nghệ sĩ trong gia đình với nhau, dành cho đứa con thơ là Trần Thiện Anh Chí và Mỹ Loan là người giám hộ. Thế nhưng có vài tờ báo xé chuyện nầy ra to, làm đau lòng người quá cố! Tuy trải qua 3 đời vợ nhưng Trần Thiện Thanh có tình thần trách nhiệm và quan tâm đến những người con.Với tài hoa sáng tác của Trần Thiện Thanh, có nhiều bài viết, ca khúc “Trần Thiện Thanh, Dòng Nhạc Một Thời Chinh Chiến” của Thụy Long với lời ca, vinh danh người nằm xuống:“Xin cám ơn anh, một thời chinh chiếnTay ôm đàn, ôm súng viết tình caTầm đạn bay xuyên qua từng nốt nhạcNhững trận hành quân để biết nhớ nhà…Cám ơn anh, cám ơn anh gót giày saut áo trậnMang vào đời những dấu vết yêu thươngGiọt mồ hôi mặn mà thêm thân phậnTiếng hát anh làm rung động cả chiến trường.Những khúc tình ca một thời chinh chiếnAnh viết cho người góa phụ ngây thơCho bà mẹ già chờ tin chiến tuyếnChưa thấy con về, chưa thấy con về mắt đỏ bơ vơ…”.Nếu cho rằng sử thi là dòng thơ ghi chép lại giai đoạn lịch sử nào đó thì những ca khúc của Trần Thiện Thanh, có thể nói lời ca của mỗi ca khúc là mỗi bài thơ được bay bổng theo giai điệu của nhạc phẩm qua cung bậc… gom lại thành sử thi của thời chinh chiến.Khoảng hai trăm ca khúc của Trần Thiện Thanh, có một phần ba mang theo hình ảnh người lính, người yêu của lính khi yêu nhau, lúc nhỏ lệ dưới vành khăn tang.Nhật Trường Trần Thiện Thanh đã trở về với cát bụi nhưng tiếng hát và nhạc phẩm của anh vẫn tỏa sáng nơi xứ người. Với người lính năm xưa, nhạc và lời của anh vẫn còn vang vọng, bay bổng trong cánh dù, thấp thoáng giữa mây trời, tuyết trắng, bồng bềnh cùng hoa biển với đại dương. Anh là người thiên cổ nhưng “anh không chết đâu anh”: Nhật Trường Trần Thiện Thanh.Vương Trùng DươngLittle Saigon, Oct 2018Nguồn: https://www.banvannghe.com/a9829/vuong-trung-duong-nhat-truong-tran-thien-thanh-nguoi-viet-su-thi-cho-nhac-linh

Rate this post