Nhạc sĩ Phạm Tuyên: Lịch sử công bằng
Nhạc sĩ Phạm Tuyên.
Trung tuần tháng 8 vừa rồi, một số văn nhân trí thức ở Huế đã tự đứng ra, lặng lẽ làm đám giỗ cho học giả Phạm Quỳnh. Nhạc sĩ Phạm Tuyên, với tư cách con trai, cũng đã được nhắn tin vào dự. Và trở về Hà Nội, ông muốn được chia sẻ cùng tôi những cảm xúc và suy tư… Thế nhưng, cơn đổ bệnh đột ngột đã buộc ông phải vào viện. Thế là phải tới cuối tháng 10 này, tôi mới tới gặp ông được. Ở tuổi trên dưới 85 rồi, trông ông vẫn còn rất minh mẫn và yêu đời, mặc dù đã hơn 5 năm nay, kể từ khi vợ ông, PGS-TS Nguyễn Ánh Tuyết, ra đi vào cõi vĩnh hằng, ông chắc cũng đã phải trải qua rất nhiều đau đớn suy tư và sức khỏe có lẽ không còn được vững chãi như trước. Cũng chính vì yếu tố sức khỏe của ông nên tôi đã không dám để ông ngồi lâu dù ông và tôi đều rất muốn trò chuyện nhiều điều. May mắn là trước đây tôi đã từng được trò chuyện không chỉ một lần nên có không ít những tư liệu để xây dựng nên bài viết này.
– Nhạc sĩ Phạm Tuyên: Anh em ở trong Huế, những người kính trọng bố tôi, đã đứng ra làm đám giỗ. Họ gọi điện thoại ra mời tôi, nhờ mời cả những người thân khác của gia tộc ở Hà Nội vào cùng dự. Nói thực, mình đã xúc động lắm… Anh em trong đó cũng đã tặng mình tập sách mới xuất bản “Phạm Quỳnh. Những góc nhìn từ Huế”…
– Hồng Thanh Quang: Thưa nhạc sĩ, khi qua đời, học giả Phạm Quỳnh bao nhiêu tuổi ạ?
– Ông cụ nhà tôi sinh năm 1892. Lúc mất, ông cụ 53 tuổi…
– Tức là bây giờ nhạc sĩ đã hơn tuổi lúc đó của cha mình tới hơn ba mươi năm. Bây giờ nếu nhớ lại thì ông nhớ điều gì nhất ở cha mình?
– Tôi nhớ đến sự nghiêm nghị của ông cụ. Nhưng cha tôi không bao giờ bắt ai, kể cả con cái, cứ nhất nhất phải làm theo ý của ông cụ cả. Ông cụ rất tôn trọng ý muốn của người khác. Thành ra trong gia đình tôi, sau này, ai thích nghề gì thì đi theo nghề ấy… Ông Phạm Khuê đấy, thì làm bác sĩ, sau này làm Viện trưởng Viện Lão khoa… Còn tôi thì viết nhạc…
– Thế còn về tuổi thơ ở Huế, ông nhớ gì?
– Tất nhiên bây giờ nhắc lại tuổi thơ thì nó cũng rất là hồn nhiên thôi. Về gia đình tôi, sau này một số nhà văn, một số nhà sử học cứ nói lung tung rằng ở đấy họ thấy vàng bạc, thấy đủ các thứ quý giá. Tôi chả nhớ gì về những thứ đó cả nhưng có một cái mà tôi đoán chắc rằng, tất cả các quan lại trong triều đình Huế không thể nào có được cái tủ sách lớn như nhà tôi đã có. Tuổi thơ tôi, những khi nào được nghỉ, không phải học ở trường thì bao giờ tôi cũng trốn vào trong buồng sách để đọc. Thói quen đọc sách về sau đã theo tôi suốt cả đời. Thói quen ấy được hình thành trong buồng sách của cha tôi… Sau này ra Hà Nội để ôn thi tú tài, mình cũng toàn tới thư viện để đọc sách, để tự học…
– Đó là vào năm nào, thưa ông?
– Năm 1945 – 1946.
– Thế ra Hà Nội, trong hoàn cảnh của gia đình ông khi ấy, ông đã sống bằng gì?
– Hồi ấy tôi có bà chị…
– Chị cả?
– Chị cả. Bà ấy là Phạm Thị Giá, vợ ông Tôn Thất Bình là Hiệu trưởng Trường Thăng Long trước đấy. Lúc ấy chị tôi có nhà ở phố Hàng Da… Trong khi cả Hà Nội có bao chuyện sôi nổi, nhất là sau cách mạng, nhưng mình thì cứ cắm cúi đi học ở thư viện. Đến nỗi về sau, năm 17 tuổi thì không được học ở trường nào cả vì lúc ấy kháng chiến toàn quốc nên mình phải theo gia đình đi tản cư ở Nam Định. Nghe nói trong Ninh Bình có tổ chức thi chuyên khoa, tức là thi tú tài, thì mình xin phép khăn gói tới Ninh Bình để thi thử. Rất ngạc nhiên là về sau có mấy anh bác sĩ bảo, cả trăm người đăng ký thi, nhưng chỉ đỗ có 3 người thôi, trong đấy có Phạm Tuyên. Nội dung mà Phạm Tuyên làm thì rất hồn nhiên. Đáng lẽ thi ngoại ngữ dùng tiếng Pháp thì lại thi ngoại ngữ tiếng Anh, còn văn làm về Truyện Kiều. Toàn những cái tự nhiên, tự đến chứ không có sự mách bảo gì. Đúng khi biết đỗ rồi thì dứt khoát xin phép gia đình, bảo xin phép lên…
– Chiến khu?
– Lên chiến khu Việt Bắc. Tại vì trên ấy có hai loại trường, trong Kháng chiến chỉ có mỗi Trường Y và Trường Pháp lý. Luật sư Đỗ Xuân Sản làm Hiệu trưởng Trường Pháp lý. Mình không có khiếu làm bác sỹ, nhưng mà…
– Làm thầy cãi thì được? (cười).
– (Cũng cười) Học pháp lý nó có cái hay là, đến đấy học, người ta còn dạy thêm ngoại ngữ, tức là tiếng Trung Quốc. Thế là mình lên học pháp lý. Học được hai năm thì… Hồi đi học pháp lý 17 tuổi được sự giác ngộ về Đảng với các thứ sách do các ông Lê Đạt, rồi Đặng Đình Hưng mang cho.
– Ông cũng cùng lứa với nhà thơ Lê Đạt và nhạc sĩ Đặng Đình Hưng?
– Thì cùng học với nhau. Các ông ấy mang cho mình sách viết về chủ nghĩa Cộng sản in bằng tiếng Pháp. Cho nên mấy bài về Đảng mà sau này mình viết hoàn toàn là từ giác ngộ do đọc tiếng Pháp.
– Đọc tiếng Pháp cả thơ Aragon: “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”…
– Tôi cũng xin được nói thế này. Có một số anh em tới phỏng vấn, bảo, tại sao lại viết bài về Đảng như thế? Tôi mới nói rằng, ở đây không chỉ là vấn đề giác ngộ giai cấp đâu, mà là đất nước, con người…
– Đảng và đất nước?
– Đảng và đất nước! Thơ Aragon có câu giật mình: Đảng cho tôi màu xanh nước non nhà. Hay câu của một triết gia: Chủ nghĩa Cộng sản là…
– Mùa xuân của nhân loại…
– Mùa xuân của nhân loại! Đó là những thứ mà tôi bị ảnh hưởng, hoàn toàn bị ảnh hưởng. Cho nên, có lần, có người hỏi tôi, tại sao anh viết như thế trong lúc có phải đảng viên nào cũng xứng danh của mình đâu thì tôi đã nghiêm mặt lại, nhưng lúc ấy tôi viết đúng như thế vì lúc ấy chỗ nào gian khổ nhất…
– Là chỗ đấy có đảng viên…
– Là chỗ đấy có đảng viên… Đó là những lời nhắn nhủ của một thời. Tôi cũng xin kể, vì sao tôi lại viết bài “Màu cờ tôi yêu”, phổ thơ của Diệp Minh Tuyền. Đó là vào những năm 80. Khi hai anh em ngồi với nhau, Diệp Minh Tuyền bảo, bây giờ viết về Đảng khó lắm anh ơi. Mình mới nói, đúng là khó nhưng bây giờ không thể không viết được, với bối cảnh hiện nay như thế này. Rồi sau lên ngồi trên máy bay, Diệp Minh Tuyền ghé tai mình bảo, em có bài thơ về Đảng đây. Mình đọc thấy bài này được. Trong đấy có những câu về sau Thanh Hoa và cả Lê Dung hát, tôi cứ nhấn lại cái ý của tác giả: Suốt đời lòng dặn giữ lời/ Đường dài muôn dặm chớ rời tay nhau… Trong giác ngộ của mình về Đảng là có tình yêu đối với quê hương, dù thế nào thì mình cũng phải gắn bó với quê hương…
– Vâng, tình yêu đất nước, tình yêu quê hương, tình yêu gia đình… Tất cả đều rất quan trọng đối với tâm hồn chúng ta, đối với sáng tạo nghệ thuật…
– Đúng thế…
– Thưa nhạc sĩ, tôi muốn hỏi tiếp một điều, chúng ta đều hiểu rằng, trong đời thì đã làm con, ai cũng kính yêu cha mình, dù cha mình là ai đi chăng nữa. Học giả Phạm Quỳnh đã để lại trong ông những ký ức gì?
– Cha tôi đối với gia đình thì vì ông ấy sợ liên lụy nên hoạt động rất đơn độc. Sau này tôi có được đọc những ghi chép của cha tôi, viết cho bản thân mình, thì tôi mới hiểu thêm về cha tôi. Thực sự, khi cha tôi còn sống, tôi còn bé nên tôi cũng không hiểu gì nhiều về cha tôi, có lẽ các bà chị của tôi biết rõ hơn…
– Ông là con út trong nhà phải không?
– Không, còn một cậu em nữa.
– Em trai của ông cũng ở bên Pháp?
– Bên Mỹ. Cậu này tốt nghiệp Khoa Văn, thời trước cũng bị ép đi lính. Sau này gặp lại, cậu ấy nói buồn cười lắm, bảo, “cây gậy Trường Sơn” của anh văng đến đâu là em phải chạy rời đi khỏi đấy… (cười).
– (Cũng cười):…
– Nhưng cậu ấy cũng rất gắn bó với gia đình nên sang bên kia hoàn toàn là chỉ nghĩ đến danh dự của gia đình thôi…
– Tôi vẫn muốn hỏi, bây giờ thực ra ông nhớ gì về học giả Phạm Quỳnh trong tư cách một người cha? Tất nhiên, hồi đấy ông còn nhỏ, nhưng chắc ông cũng nhớ cách cha ông dạy dỗ con cái chứ? Chức Thượng thư trong triều đình Huế là rất oách rồi, nhưng cái oách ấy liệu có ảnh hưởng tới việc giáo dục con cái trong gia đình không và ảnh hưởng như thế nào?
– Trong ký ức của mình, đồng thời cả những bà chị còn nhớ, cha tôi luôn giáo dục con cái trong gia đình phải sống cho nó trong sáng. Và cha tôi hay dặn dò con cái, chủ yếu là giữ đạo đức cho tốt. Nhưng cái quan trọng hơn là, cha tôi rất tôn trọng ý của các con, rất là hay ở chỗ đó, cho nên về sau người ta mới bảo, nhà này có mấy ông con giai thì mỗi ông một kiểu.
– Tôi xin lỗi cắt ngang, gia đình học giả Phạm Quỳnh được mấy người con trai, mấy người con gái?
– 5 con trai, 8 con gái.
– Tức là 13 người?
– 13 người. Ngày xưa tôi sáng tác bài “5 con voi và 8 nàng tiên”, là nói về các anh chị em tôi. Anh cả tôi, nay đã mất rồi, thì lãng mạn, thích vọng cổ. Sau ông ấy vào miền Nam lấy một bà người Huế, con thương gia. Có người bảo, sao con cụ Thượng thư lại lấy con một nhà buôn? Nhưng anh ấy cứ thích thế… Ông anh thứ hai thì học luật sau làm ở Liên hợp quốc nhưng cũng đã mất rồi. ông ấy lại thích nhạc cổ điển. Ông thứ ba là ông Phạm Khuê.
– Tôi cũng có được hân hạnh biết GS Phạm Khuê và cả con giai của GS nữa, thỉnh thoảng cũng được ngồi uống rượu với anh ấy…
– Ông Phạm Khuê thì thích nhiều thứ, vừa thích nhạc cổ điển, vừa thích nhạc mới.
– Còn ông thứ tư?
– Ông thứ tư là ông Tuyên đây (cười).
– (Cũng cười): Là nhạc sỹ rồi! Ông thứ năm là ông từng ở miền Nam và nay ở Mỹ mà ông vừa nhắc tới.
– Đấy!
– Đó là ông mà “gậy Trường Sơn” văng đến đâu thì chạy khỏi đấy (cười).
– (Cười): Bây giờ anh chị em của tôi cũng mất gần hết rồi, cả chị Phạm Thị Hoàn nữa, cũng đã mất…
– Tôi cũng có được biết gia đình bác Phạm Thị Hoàn và chồng của bác là bác Lương Ngọc Châu, cháu nội cụ Lương Văn Can. Bác Hoàn là ca sĩ, bác Châu là nhạc sĩ, cũng say mê sáng tác lắm, có bài “Anh cần em” khá nổi tiếng. Tôi từng đến nhà hai bác ấy ở Paris từ hơn chục năm trước. Một gia đình nghệ sĩ rất chân tình và hiếu khách…
– Cả đại gia đình nhà tôi đều yêu nghệ thuật lắm. Và không có cái kiểu phản ứng như là chống đối với đất nước cả…
– Người ta nói chuyện này nhưng tôi muốn được nghe từ chính ông nói. Có phải là Bác Hồ đã có lần gặp ông và có dặn dò một số thứ? Đó là những thứ gì vậy?
– Tôi không được trực tiếp gặp Cụ Hồ nhưng nghe qua lời ông Huy Cận…
– Ông Huy Cận nói thế nào với ông?
– Nói là, cụ Phạm là người của lịch sử, hãy để cho lịch sử phán xét, các con cháu cứ yên tâm mà đi theo cách mạng. Lời dặn ấy về sau trở thành một lời phổ biến trong gia đình tôi. Hôm có mấy anh em phỏng vấn tôi, tôi bảo, mỗi người có một cách ứng xử, tôi không giống như một vài nhân vật khác, cũng gia đình quan lại nhưng được đối xử tốt như thế mà ra nước ngoài lại đổi giọng chửi đổng, chửi chả được cái gì cả.
– Vâng, chả để làm gì cả!
– Đối với đất nước thì lại thất thố.
– Đúng là thất thố!
– Thế thì cách của mình là vượt qua cái đó để mà có cái cách ứng xử đúng đắn…
– Với đất nước, với thời đại của mình thôi…
– Tôi có đọc được trên một tờ lịch có ghi câu nói của Bill Gates, tỷ phú Mỹ, rằng “Cuộc sống vốn không công bằng, phải tìm cách thích nghi và vượt lên nó”. Đúng như thế, anh nào cũng đòi hỏi cuộc sống lúc nào cũng phải công bằng thì luôn luôn là bất mãn. Gần đây tôi đọc những bài của Bùi Tín thấy rất không được. Ai lại viết như thế về đất nước mình, nhân dân mình… Tôi nhớ ngày trước có lần tôi sang Campuchia khi đất nước Ăngco mới được giải phóng khỏi họa diệt chủng. Đại tá Bùi Tín còn dẫn tôi đi, hai anh em nói chuyện với nhau, hồi đấy tôi đi với tư cách nhạc sĩ thôi. Nghe Bùi Tín nói lúc đó tôi đã kinh ngạc, ai lại một Phó tổng biên tập một tờ báo lớn mà lại ăn nói như thế, rặt chửi đổng… Không biết gì cũng chửi… Tôi nghĩ, làm như thế thì nhân cách con người nó sẽ bị mất đi…
– Làm người tử tế thì không nên ăn cháo đá bát!
– Tôi đọc sách tôi thấy, trong quá trình diễn ra các cuộc đảo lộn xã hội, ở nước nào cũng khó tránh xảy ra những vụ việc manh động, cả ở Pháp, ở Nga hay ở đâu đâu cũng từng như thế. Và mình phải chấp nhận và khi đã chấp nhận được thực tế lịch sử như thế thì anh sẽ tìm được nguồn an ủi, động viên. Nói thật với Hồng Thanh Quang, mình mà không có được công chúng yêu âm nhạc người ta dành cho mình những tình cảm thì mình khó vượt qua được, công chúng đối với mình tốt quá.
– Thực ra là vì ông cũng có tài, những bài hát của ông cũng giúp ích rất lớn cho mọi người… Tôi muốn hỏi ông thêm chuyện này, không biết có ai đã từng hỏi ông không. Người ta bảo phúc đức tại mẫu. Ông nhớ gì nhất về mẹ của ông?
– Mẹ tôi thì hiền vô cùng. Lúc mẹ tôi còn sống thì tôi là một trong những đứa con được chiều nhất.
– Ông là gần út mà, giàu con út khó con út, đúng không ạ?
– Sau chị tôi kể cho tôi biết chứ lúc bé tôi có biết đâu, bảo là, lúc sinh ra thì bà ấy đẻ tôi trong cái bọc, sau phải rạch ra. Nghe người ta bảo, đứa nào đẻ ra từ ở trong bọc là tốt lắm đấy nên mẹ tôi mới chiều. Thế nhưng ngược lại, ông cụ tôi lại bình đẳng, không phân biệt đứa nào với đứa nào.
– Con cái như nhau hết!
– Con cái đều được bố đối xử bình đẳng, còn mẹ tôi thì lại hơi ưu ái tôi một tí. Nhưng có đặc điểm mà về sau tôi mới biết được là, mẹ tôi không biết chữ mà thuộc rất nhiều ca dao, tục ngữ..
– Vợ quan Thượng thư, vợ học giả mà không biết chữ?
– Thế đấy, nhưng mẹ tôi có trí nhớ rất tuyệt vời. Khi cha tôi còn làm ở Hội Khai trí Tiến đức, người ta tới đóng tiền thì mẹ tôi nhớ hết, về sau đọc lại cho cha tôi ghi biên lai… Cuốn “Ca dao tục ngữ Việt Nam” mà cha tôi biên soạn là hoàn toàn dựa vào trí nhớ của mẹ tôi…
– Cụ bà quê ở đâu, thưa ông?
– Bắc Ninh.
– Kỷ niệm cảm động về người mẹ mà ông còn nhớ đến bây giờ?
– Tôi chỉ nhớ là mẹ tôi hiền lắm, không bao giờ gắt mắng con cái.
– Bà cụ có hay bị chồng bắt nạt không? Vì quan Thượng thư rất là oai vệ, nghiêm khắc…
– Không, ông ấy lại rất bình đẳng.
Hoa Đường tùy bút và 51 bản dịch thơ Đỗ Phủ của học giả Phạm Quỳnh.
– Tôi xin lỗi, tôi muốn hỏi là học giả Phạm Quỳnh có đa tình không? Tôi nghĩ, văn nhân học giả thời xưa, quan lại thời xưa đều công khai đa tình, năm thê bảy thiếp. Vậy quan Thượng thư Phạm Quỳnh có lấy nhiều thê thiếp không ạ?
– Tuyệt đối không có! Cha tôi có một công trình nghiên cứu về hát ca trù rất công phu…
– Hát ca trù thì phải có đào nương….
– Công trình này về sau Viện Âm nhạc Việt Nam cũng cho in lại. Mấy người mới bảo, ôi trời, chắc cụ gặp nhiều đào nương lắm. Nhưng ngày ấy, nếu có ai hỏi ông về chuyện này thì ông trả lời, tôi lấy vợ sớm…
– Từ lúc bao nhiêu tuổi ạ?
– Từ năm 20 tuổi. Cả cụ ông lẫn cụ bà đều bằng tuổi nhau. Mỗi khi ai hỏi về chuyện ca trù thì cha tôi bảo, gặp đào nương như thế, không bao giờ tôi nghĩ chuyện gì khác vì tôi lấy vợ sớm nên nó chỉ bằng con mình thôi, nên tôi không bao giờ nghĩ gì với các đào nương ấy cả… Hồi xưa nó là thế.
– Nói thật, hồi sang Paris cách đây gần hai chục năm, tôi có dịp được đọc bài ghi chép của học giả Phạm Quỳnh kể chuyện “Kinh đô ánh sáng”. Đọc xong tôi mới giật mình, nói mình hậu sinh bây giờ mà viết thì cũng không thể bao giờ hơn được. Muốn nói gì thì nói, đó là một học giả cự phách.
– Về sau này có những nhà nghiên cứu về sử người ta mới nói, là qua cái đó mới thấy hóa ra đúng thật Phạm Quỳnh và Nguyễn Ái Quốc đã gặp nhau ở Paris, tâm sự với nhau rất nhiều. Cụ Hồ về sau có giao cho Huy Cận rằng, nếu vào kịp thì mời cụ Phạm ra đây để trò chuyện… Nhưng…
– Tôi hiểu… Tôi còn được biết rằng, qua những ghi chép của nhà văn Sơn Tùng, Bác Hồ đã từng nói về học giả Phạm Quỳnh: “…Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm ở Pháp. Đó không phải người xấu…”
– Đúng thế. Anh Sơn Tùng trong thư gửi cho tôi có kể lại điều này…
– Trong suốt quá trình hoạt động của ông, chắc chắn ông chịu nhiều mặc cảm, sức ép thì những khi đó, ông đã suy nghĩ như thế nào?
– Lúc mà mình đến với Đảng là lúc rất hồn nhiên, hoàn toàn phù hợp với…
– Khao khát, hướng thiện của mình…
– Phù hợp với cái lý tưởng mình phấn đấu như thế. Trong cuộc đời gặp nhiều trắc trở nhưng lại được gặp nhiều người tốt.
– Đó là những ai, thưa ông?
– Khi mình ở bộ đội, tốt nghiệp Trường Lục quân về làm Đại đội trưởng Trường Thiếu sinh quân Việt Nam. Lúc ấy, Hiệu trưởng là ông Lê Chiêu, Thiếu tướng, về sau làm Giám đốc Bảo tàng Quân đội đấy.
– Bác Lê Chiêu giúp gì cho ông?
– Ông giới thiệu tôi vào Đảng. Lúc ấy mọi người hồn nhiên bảo anh này tốt thì vào Đảng được đấy… Sau này, gặp lại ông Lê Chiêu trên phố Lý Nam Đế, tôi có hỏi, việc anh giới thiệu một người có lý lịch như tôi vào Đảng thì có gây phiền phức gì cho anh không? Ông ấy bảo, cũng có chút ít thôi nhưng không sao; ai hỏi thì mình bảo Tuyên là người tốt, cần được kết nạp, mà nếu có là con quan Thượng thư thì chắc phải là con của bà ba, bà tư, tức là thuộc thành phần không bóc lột (cười).
– Có ai biết đâu Phạm Tuyên lại là con của bà cả và quan Thượng thư Phạm Quỳnh chỉ có một vợ thôi
– Phải, một vợ thôi (cười).
– Đôi khi chúng ta cũng dễ hiểu nhầm tiền nhân, cứ nghĩ tiền nhân cũng như chúng ta mơ ước, có thể năm thê bảy thiếp (cười)
– (Cười): Đấy…. Còn trường hợp thứ hai, khi mình được cử làm tổ trưởng một tổ giáo viên ở Trung tâm học vụ, trong tổ có cả Nguyễn Cảnh Toàn, rồi cả cụ Nguyễn Lân nữa… Mình thì trẻ quá mà vẫn được tín nhiệm. Có ý kiến bảo sao lại thế thì ông Võ Thuần Nho, em ruột ông Võ Nguyên Giáp, đứng lên nói, cậu ấy tốt lắm, không có vấn đề gì đâu…
– Cuộc đời của ông xem ra cũng có không ít những thăng trầm…
– Tôi luôn luôn ý thức được, trong cái rủi phải tìm cái may. Tôi nhớ, khi chúng ta mới lập ra Đài Truyền hình, bắt đầu làm đen trắng, tình hình cũng không đơn giản. Lúc đấy mình đang làm Trưởng ban Ca nhạc của Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, một hôm ông Trần Lâm gặp tôi, vui vẻ bảo, chuẩn bị tinh thần nhé, trách nhiệm còn nặng nữa đấy. Ý sẽ đề cử làm…
– Phó Tổng Giám đốc?
– Phó Tổng Giám đốc Đài Truyền hình. Ít lâu sau gặp tôi ông ấy bảo, xin lỗi nhé vì có ý kiến bảo để anh chuyên tâm sáng tác… Năm sáu mấy ấy, ở trên chủ trương cử 2 cán bộ trẻ ở Viện Âm nhạc sang bổ túc về âm nhạc ở bên Liên Xô. Viện Âm nhạc chọn mãi, cuối cùng chọn 2 người, Trọng Bằng và Phạm Tuyên. Hai thằng về bàn với nhau bảo mỗi thằng chuẩn bị một bộ nghiêm, một bộ nghỉ…
– Để thay nhau…
– Để thay nhau. Cái thứ hai là học ôn piano đi cho nó tốt, sang thì bổ túc thêm. Sát đến ngày đi thì ở trên bảo Phạm Tuyên ở nhà, Trọng Bằng đi,
– Khi đó ông có cảm giác thế nào?
– Hơi bị sốc vì mình đang chuẩn bị rồi mà. Nhưng về sau nghĩ bụng bảo trong cái rủi lại có cái may. Tại vì thế nào? Thứ nhất, ở ta sách Nga, sách Trung Quốc cũng có đầy, tôi tự học được. Cái thứ hai là, ở nhà thì tôi không bị thầy Trung Quốc với thầy Nga ám ảnh sau lưng tôi.
– Tự mình làm việc của mình…
– Tôi tự làm. Và nếu mà dân mình hiện nay đón tác phẩm của tôi là vì tôi tìm ra ngôn ngữ riêng của Phạm Tuyên. Bà vợ tôi vẫn thích đấy, bà bảo như thế hay hơn. Hiện nay có một số người làm âm nhạc trong khi chưa làm ra đâu vào đâu cả thì trước hết cứ khoe, tôi đã tốt nghiệp nhạc viện này nọ, rồi các thứ khác nữa.
– Nhưng những thứ đó lại không hòa nhập với chất của mình được…
– Không hòa nhập với chất của mình. Đấy là cách suy nghĩ của người ta, còn đối với mình rõ ràng đấy là cái buộc mình phải phát huy tinh thần tự chủ, tự trang bị cho mình mọi kiến thức. Cho nên về sau tất cả sách mình viết về lý luận âm nhạc toàn những cái mà mình tiêu hóa được từ sách của nước ngoài…
– Thưa nhạc sĩ, tôi hiểu là cuộc đời chúng ta không ai có thể đi lại, làm lại được, cuộc đời này không có sự giả sử. Nhưng nếu nhìn lại đoạn đời đã qua, ông có điều gì ân hận không, hay có suy nghĩ gì khác không về cuộc sống đã qua của mình? Ở tuổi của ông, tôi nghĩ cũng có thể nói ra một vài điều gọi là đúc kết đi. Cái gì ông muốn để cho thế hệ hậu sinh như chúng tôi tiếp nhận được từ thế hệ của ông, từ cuộc đời của chính ông, một nhạc sỹ có nhiều thành tựu nhưng rất không đơn giản? Ông sẽ còn sống lâu, tôi hy vọng như thế nhưng đại khái ông có nói điều gì không để lớp hậu sinh nghe, hiểu, để xử lý đời mình tốt hơn?
– Khát vọng của mình thì còn nhiều. Một trong những điều cho đến giờ phút này cố gắng để làm thế nào vượt qua được. Đó là bây giờ quỹ thời gian cũng ít nên để mà có một cái gì mới thì rất khó nhưng phải làm thôi. Cái nữa là mình mong được chứng kiến một sự giải tỏa về gia đình. Cái đấy gần đây mình bắt đầu thấy…
– Thấy chuyển động rồi…
– Hàng nghìn trang sách của cha tôi đã được in lại rồi nhé. Tôi rất mong sẽ có ngày ấy, mình không ảo tưởng có sự đính chính gì đâu, nhưng chỉ cần có một…
– Cái nhìn đầy đủ hơn và thỏa đáng hơn và nó hợp với sự phát triển hơn?
– Đúng thế. Quan trọng nhất là có một chỗ đứng trong tình cảm của quần chúng.
– Nó không phải là phủ nhận những điều đã có mà nó là sự bổ sung để những điều đã có trở nên hoàn chỉnh và công bằng hơn. Ông có công nhận thấy như thế không? Cuộc sống nó vốn là như thế vì chúng ta càng ngày càng có khoảng lùi thời gian, càng có vị thế để nhìn quá khứ một cách công bằng và thỏa đáng hơn. Bởi vì chúng ta càng phát triển, càng mạnh thì chúng ta càng có điều kiện để nhìn quá khứ và điều đó…
– Độ lùi thời gian vô cùng quan trọng. Nói về cái băn khoăn, suy nghĩ nhiều nhất của mình hiện nay là, thôi cố gắng làm thế nào giữ cho nhân cách của mình sống chứng kiến được sự cởi mở, đánh giá lại… Tôi vẫn nghĩ, lịch sử công bằng lắm, lịch sử sẽ duyệt lại…
– Vâng lịch sử công bằng, lịch sử sẽ phán xét… Tôi nghĩ, ông đã sống cả cuộc đời như thế, nên sẽ vẫn tiếp con đường ấy… Xin cảm ơn ông!
– Xin cảm ơn Hồng Thanh Quang!