Một số nhà thơ hiện đại giữa và cuối thế kỷ 20
Tập thơ Lá của Văn Cao gồm những bài viết từ 1942 đến 1987, xuất bản năm 1988, là một đóng góp đáng trân trọng cho việc làm mới ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại. Có thể nói, ông đã tạo nên một dòng thơ mới lạ, đa cảm, gọn mà ôm chứa nhiều ý nghĩa đời sống: “Có lúc/ một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ/ Có lúc/ ban ngày nghe lá rụng sao thảng thốt/ Có lúc/ nước mắt không thể chảy ra ngoài được“. Thơ tình của Văn Cao cũng chứa đựng thật lắm lẽ đời: “Những ngày đau khổ ấy/ Khuôn mặt em/ Như mảnh trăng những đêm rừng cháy“. Bài thơ viết “những ngày đau khổ ấy” thật đẹp, và cũng cô đơn, nghẹn ngào: “Ôi khuôn mặt sáng trong và bình lặng/ Tôi được đầu tiên và còn lại cuối cùng“. Thơ rất giàu hình ảnh, và có thể nói, ông trình bày đời sống tinh thần của mình bằng bố cục tạo hình: “Tất cả tình yêu khát khao hy vọng/ Bốc lên trong lòng/ Rơi xuống những giọt nước mắt“. Và Văn Cao vẽ bằng thơ: “Trời xanh/ rơi/ vài giọt Tháp Chàm. Qua rất ít ngôn từ, người đọc cảm nhận ở thơ ông rất nhiều. Phẩm chất hàm súc trí tuệ thơ thật đặc biệt, mà hồn thơ ông là hồn Việt Nam truyền thống: “Dĩ vãng giữ trong tôi như một mùi cỏ/ Thơm ủ trong tóc người yêu“.
Năm 1990 và 1991, Nguyễn Lương Ngọc đã xuất bản hai tập thơ Từ nước và Ngày sinh lại, cũng đem đến cho đời sống thơ ca một lối nói mới. Dường như coi cái mới là mục đích, nên thơ Nguyễn Lương Ngọc ít sự đời, nhiều khi cầu kỳ, tối nghĩa. Nhưng đôi khi, hồn thơ anh thật da diết: “Trong mơ đau thắt ngực/ Hình xưa lững thững về/ Tôi xanh da trời/ Em tôi thì trắng/… Hai anh em hiện hình của nắng/ Và mây lành trời ơi/ Như hồn trong mộng/ Hai anh em trôi/ Móc bay lất phất…“. Ý thơ mang mang, vô định, tình thơ lại phảng phất hồn đồng dao: “Con cắt trắng/ xếp cánh khi gặp con khướu vàng/ Con khướu vàng/ khép mỏ/ khi gặp con hạc đỏ/ Con hạc đỏ/ nức nở/ nhìn/ con hạc trắng/ Hạc trắng! Hạc trắng! Những con đã sinh ra thì đã chết/ Những con chưa chết thì chưa sinh ra“. Ðọc Nguyễn Lương Ngọc, chúng tôi thấy anh có gì rất gần với thơ Cố Thành, một nhà thơ trẻ Trung Quốc sống ở châu Âu cuối thế kỷ 20, được người đời coi là đã tạo nên lối thơ mông lung. Rất tiếc, Nguyễn Lương Ngọc qua đời sớm, chưa viết được bao nhiêu.
Năm 1992, Nguyễn Quang Thiều xuất bản Sự mất ngủ của lửa, rồi được Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1993. Ngôn ngữ thơ trong Sự mất ngủ của lửa khác hẳn thơ ca đương thời, thí dụ, những câu trong bài Câu hỏi cuối ngày: “Trong cơn mơ đói và buồn/ Các cô gái đẹp cưỡi xe máy phóng qua/ Như dao sắc phất vào tôi tứa máu/ Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói/ Rằng nếu tôi lấy họ/ Tôi sẽ ngủ với họ thế nào“. Song, chúng tôi nghĩ, Nguyễn Quang Thiều viết Sự mất ngủ của lửa, nhiều khi chỉ để làm ra một thứ thơ khác lạ. (Chúng tôi sẽ đề cập tới vấn đề này trong bài sau).
Kế tiếp, năm 1993, Ðặng Ðình Hưng xuất bản tập Ô mai, và rồi, tập thơ Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng in năm 1994, càng khác lạ hơn. Những câu của Ðặng Ðình Hưng: “…thể nghiệm cô đơn, thể nghiệm đâu đâu, cơn thể nghiệm ân hận, thể nghiệm trong hầm và bùn, thể nghiệm cuối cùng, thể nghiệm thèm…“; Rồi: “Bão loạn. Lốc dù xanh. Cốc ré. Váy hè. Tiện nghi lạc-xon. Chất chồng trô trố. Môi ngang. Vô hồn. Khoảnh khắc. Mi-ni mông lông. Cởi quần, chửi thề. Con gà quay con gà quay“… Với kinh nghiệm văn học của mình, chúng tôi nghĩ, những câu ấy không có họ hàng, dây mơ rễ má gì với thơ ca Việt Nam ta. Tuy nhiên, chúng tôi rất trân trọng cách nhìn nhận của tài năng lớn Văn Cao: “Người đời yêu những con người cố mở đường mà thất bại, yêu những con người thất bại mà dám mở đường. Bởi vì những người đó đã nghĩ đến sự tiến bộ của nghệ thuật!”.
Mãi đến năm 1994, Lê Ðạt mới đem in tập Bóng chữ, gồm những bài thơ viết suốt gần 40 năm. Có thể thấy, Lê Ðạt là thi sĩ rất kiên gan, gần bốn chục năm trời cứ dấn bước trên con đường săn tìm một thi pháp mới. Và, phương pháp săn tìm của ông là muốn loại nghĩa ra khỏi chữ. Do vậy, thơ nhiều chữ quá, tiêu biểu là bài thơ dài Ông phó cả ngựa, những chữ rất tối nghĩa và như cái xác không hồn: “Lũ vật lớn bốc/ Một đàn lốc nhốc/ Guốc khua lốc cốc/ Sớm bốn chân thò mộc/ Lộc ngộc/ Ngựa quần cộc“. Ấy là thi sĩ muốn dùng tiếng vó ngựa diễn tả ngựa gỗ do bác phó mộc làm nên, để làm mới lạ thơ. Nhưng, câu chữ thi sĩ tạo nên quá kỳ khu. Có khi kỳ khu đến kỳ cục, khi thi sĩ muốn thơ mình “mới lạ” nên đã viết những bài thơ với những câu đọc xuôi cũng thành thơ Lê Ðạt, đọc ngược cũng thành thơ Lê Ðạt, đơn cử: “Nó anh em gì chó đăm chiêu Kim Tự Tháp”, và đọc ngược, có vẻ còn xuôi hơn: “Kim Tự Tháp đăm chiêu chó gì anh em nó“… Rất tôn sùng G.A-pô-li-ne, bậc thầy lối thơ siêu thực Pháp, song Lê Ðạt nghĩ về chữ là chủ yếu, nên ít cảm. Nhưng, thơ ông trở nên đáng trân trọng khi được xúc cảm dẫn dắt: “Mẹ già anh ngơ ngác/ Lưng còng đau gậy tre“, (bài Gốc khế); “Chiều ngậm mãi một nỗi chim rời tổ” (bài Anh ở lại). Cuối đời, thi sĩ viết bài thơ mới lạ và dễ vào lòng người đọc: “Anh đến mùa thu nhà em/ Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ…/ Nông nỗi heo may từ đó/ Mưa đêm tuổi nổi ao đầy/ Ðồi cốm đường thon ngõ nhỏ…/ Tóc hong mùi ca dao/ Thu rất em/ Và xanh rất cao“. Thơ ấy, do xúc cảm đưa lối cho thi sĩ sáng tạo nên.
Về Kinh Bắc xuất bản năm 1994, Hoàng Cầm viết trong hai năm, 1959 và 1960. Nếu nhìn giai đoạn từ năm 1955 trở đi, các nhà thơ ta hầu như thiên hẳn về thứ thơ đơn sơ, hợp với đề tài công nông binh, mà nhà Thơ mới tiêu biểu Xuân Diệu luôn luôn cổ võ “chân chân chân, thật thật thật”, thì mới thấy ngôn ngữ thơ trong Về Kinh Bắc là hết sức mới: “Chuông chiều cởi yếm/ Chuông sớm đội khăn/ Câu kinh tê tê mười ngón tay măng…/ Gió vào trăm cửa/ Gió ra hồng da trinh nữ” (bài Ðêm thủy); Em cười như lá mỏng/ Khép cửa vào chiêm bao…/ Năm năm bay ngang đầu” (bài Anh đứng đây là đâu). Bài Lá diêu bông danh tiếng, rất khó bình giải về cậu bé mười hai tuổi có mối tình với Chị tuổi đôi mươi, nhưng nhiều thế hệ người đọc đã yêu thích bài thơ, bởi khi đọc nó họ bị cuốn theo xúc cảm của tác giả mà nhập vào thiên tình sử lạ lùng ấy: “Từ thuở ấy/ Em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể/ Gió quê vi vút gọi/ Diêu bông hời…/ ới Diêu bông!” Phải là một thi tài thật sự mới viết được thơ siêu thực hay như vậy!… Có thể nói, chính do đòi hỏi nội tại trong hồn vía một thi sĩ là phải viết mới hơn những thơ đã có, nên Hoàng Cầm đã sáng tạo nên Về Kinh Bắc suốt thời gian sống trong nhiều éo le lận đận!
Xem đêm của Phùng Cung, xuất bản năm 1995, là tập thơ 200 bài ông viết từ ngày còn trẻ, đến 1995, khi đã 65 tuổi mới đem xuất bản, được dư luận chú ý nhiều về ngôn ngữ và hình ảnh thơ rất mới, (bài Ðò khuya): “Trăng ngả màu hoa lý/ Tiếng gọi đò/ Căng chỉ qua sông“; (bài Bèo): “Lênh đênh muôn dặm/ nước non/ Lạc vào ao cạn/ Vẫn còn lênh đênh; (bài Mồ hôi xương): “Em vất vả/ tối ngày tất tả /Lưng áo em/ ngoang vôi trắng xóa/ Cái trắng này/ vắt tận trong xương“; (bài Nghe đêm): “Trong gối vọng tiếng ru/ Lắng tai mới rõ/ Tiếng tóc mình chuyển bạc“… Nhà thơ Quang Huy nhận xét rất sâu: “Phùng Cung xứng đáng là một trong những bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ”. Về mầu nắng, Phùng Cung viết: nắng phơi rơm, nắng bổ cau, lại cả nắng- Âu- Cơ…; về mầu trời, ông thấy: xanh rau khúc, xanh cánh chấu, và còn Khát muốn chết một mảnh trời da bát; thi sĩ này nghe được tiếng tù và đầy hồn vía rúc lên đâu đó: Tiếng tù và bết gió… Có thể nói, Phùng Cung đã tạo nên một ngôn ngữ thơ mới, tinh lọc và đẹp bằng ngót cả đời người chìm nổi cùng nỗi lòng thật nhiều quặn thắt!
Những năm từ 1988 đến 1995 rất cởi mở trong việc xuất bản sách, ai có vài chục bài thơ đều dễ dàng in thành một tập thơ. Những năm tiếp theo còn xuất hiện thêm không ít các nhà thơ dấn bước vào con đường săn tìm cái mới cho thơ. Có người được dư luận chú ý ít nhiều, có người còn chưa được nhiều người đọc văn học biết đến mấy. Trước thực tế sáng tác và xuất bản thơ như vậy, một số nhà thơ và người quan tâm dường như đã cho rằng, thập kỷ cuối của thế kỷ 20, các nhà thơ đang làm cho thơ Việt Nam mới hẳn lên. Nhận xét trên có thỏa đáng không? Xin được đề cập vấn đề này trong những bài viết sau.