Chính Hữu với những trang thơ về người lính
Trong làng thơ Việt Nam, Chính Hữu là một trường hợp đáng để nhiều người mơ ước. Tuy viết ít nhưng thời kỳ nào, ông cũng có những bài thơ rất hay, mang đậm hơi thở thời đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông chỉ công bố 3 tập thơ với khoảng gần 50 bài nhưng đã ghi dấu vào thi đàn Việt Nam như một gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến.
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, sinh ngày 15/12/1926 tại thành phố Vinh, Nghệ An. Ông tham gia cách mạng từ năm 1945, gia nhập Trung đoàn Thủ đô và có mặt trong chiến dịch Việt Bắc với tư cách Chính trị viên Đại đội.
Nhà thơ Chính Hữu đã về cõi vĩnh hằng ngày 27/11/2007 với tâm thế thanh thản của người đã dâng hiến hết mình cho sự nghiệp văn học nghệ thuật và thống nhất đất nước.
Nhà thơ Chính Hữu đã về cõi vĩnh hằng ngày 27/11/2007 với tâm thế thanh thản của người đã dâng hiến hết mình cho sự nghiệp văn học nghệ thuật và thống nhất đất nước.
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã từng nhận xét: Chính Hữu là “nhà thơ quân đội thực thụ cả ở phía tác giả lẫn tác phẩm”. Sắc xanh áo lính đã gắn bó với Chính Hữu trong suốt con đường thơ của ông và nói đến thơ ông là nói đến những trang thơ về người lính.
Năm 1947, tác phẩm đầu tay của ông, bài thơ “Ngày về” ra đời”Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa/ Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng/ Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng/ Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm”. Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên thật đẹp và lãng mạn, mang màu sắc của những anh hùng xưa. Bài thơ “Ngày về” đã trở thành một dấu mốc quan trọng, ghi lại dấu ấn ngày đầu Chính Hữu đến với thơ ca cách mạng.
Sau “Ngày về”, đặc biệt là từ khi trở thành một chiến sĩ thực thụ, ông viết chân thực hơn, qua những vần thơ gắn liền với cuộc sống chiến đấu của người lính, như: “Giá từng thước đất”, “Thư nhà”, “Ngọn đèn đứng gác”… Trong đó, nổi tiếng nhất là bài “Đồng chí” viết năm 1948.
Người lính trong thơ Chính Hữu là những anh vệ quốc đoàn, những chiến sĩ Ðiện Biên… Những con người vừa rời cuốc cày bước vào chiến trận được nhà thơ khắc họa ở nét đời thường, đời sống tình cảm mộc mạc mà chân thành, sâu lắng với đồng đội, với quê hương: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá/ Anh với tôi đôi người xa lạ/ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau/ Súng bên súng, đầu sát bên đầu/ Ðêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ...”.
Tình đồng chí, đồng đội in đậm trong những trang thơ kháng chiến của Chính Hữu.
Với “Đồng chí”, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc. “Đồng chí” cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng chi tiết, từng hình ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết từ bên trong.
Với Chính Hữu, khi viết về người lính, ông luôn luôn ở vị trí người trong cuộc không phải vì ông cũng là người chiến sĩ mà hơn thế, tâm hồn ông như đã thuộc về họ. Ông giãi bày niềm hạnh phúc thực sự: Sung sướng bao nhiêu/ Tôi là đồng đội/ Của những người đi vô tận hôm nay”.
Và ước muốn “Cuộc đời anh, cho tôi chia một nửa/ Nửa giọt mồ hôi vạt áo còn đầm/Nửa dãy Trường Sơn thác ghềnh vất vả/ Nửa bát cơm hạt muối nhọc nhằn”…