Chiến thần Hàn Tín : Cuộc đời và sự nghiệp lẫy lừng (kỳ 1) – Chịu nhục, tìm Minh Quân – Chia Sẻ Kiến Thức Điện Máy Việt Nam
Hàn Tín đã trở thành lịch sử một thời “ bách chiến bách thắng ”, ngay cả Bá vương Hạng Vũ từng được nhìn nhận là “ thiên cổ không có người thứ hai ” cũng đành ngậm ngùi trở thành bại tướng dưới tay Hàn Tín .
Là bậc đại căn khí vạn năm khó gặp, Hàn Tín ôm tham vọng bá vương, chuẩn bị sẵn sàng nhẫn nhục, không nổi giận một cách vô cớ, và là một dẫn chứng tuyệt vời và hoàn hảo nhất về người có tâm đại nhẫn .
Trong sử sách hàng ngàn năm của Trung Hoa, nhân tài – danh tướng – mưu sĩ Open nhiều như lá trong rừng như sao buổi đêm. Những người được xem là kỳ tài thiên hạ mỗi triều đại đều Open vài ba khuôn mặt. Nhưng trong số đó, Chiến thần Hàn Tín vẫn luôn có một chỗ đứng riêng với một sự nghiệp lẫy lừng ít ai sánh được. Vào những năm cuối thời nhà Tần, cục diện hỗn loạn, quần hùng khắp nơi tranh giành thiên hạ. Đúng lúc ấy Hàn Tín bước lên vũ đài, chỉ trong vòng 5 năm đã bình định sơn hà, một lần nữa thống nhất Cafe Trung Nguyên. Nhà Hán hoàn toàn có thể làm chủ giang sơn, công lao đều thuộc về Hàn Tín .Chân dung Hàn Tín. (Ảnh: Bộ sưu tập Thanh Điện)Hàn Tín đã trở thành lịch sử một thời “ bách chiến bách thắng ”, ngay cả Bá vương Hạng Vũ từng được nhìn nhận là “ thiên cổ không có người thứ hai ” cũng đành ngậm ngùi trở thành bại tướng dưới tay Hàn Tín .Là bậc đại căn khí vạn năm khó gặp, Hàn Tín ôm tham vọng bá vương, chuẩn bị sẵn sàng nhẫn nhục, không nổi giận một cách vô cớ, và là một dẫn chứng tuyệt vời và hoàn hảo nhất về người có tâm đại nhẫn .
Hàn Tín được hậu thế ca tụng là “ quốc sĩ vô song, binh Tiên chiến Thần ” ( nhân tài kiệt xuất, dụng binh và chiến đấu như Thần ). Khả năng bày binh bố trận của ông đã đạt tới Thánh giới Tiên cảnh, tựa như thiên mã lướt gió tung mây, một mạch từ trên trời hạ xuống, động tác tuy nhẹ nhàng nhưng lại có sức nặng vạn cân. Cách dụng binh thần kỳ của Hàn Tín trong lịch sử không có người thứ hai. Tài năng phi phàm của ông khiến hậu thế ca tụng không ngớt. Mỗi đại chiến do ông chỉ huy đều là bản thiên anh hùng ca hào tráng, mưu lược và thẩm mỹ và nghệ thuật quân sự chiến lược của ông xuất Thần nhập hóa, lưu danh ngàn đời .
Chương 1: Lòng ôm chí lớn, ẩn thân giấu tài
Hàn Tín là người Hoài Âm, Giang Tô, sinh ra trong lúc mái ấm gia đình lâm vào cảnh khốn cùng. Sử sách không ghi chép tượng tận về thế lực của ông, chỉ biết rằng thuở nhỏ ông và mẹ trải qua những tháng ngày cơ cực, phải phụ thuộc vào nhau mà sống. Bởi trong nhà cất giữ binh thư và bảo kiếm, vì vậy từ nhỏ Hàn Tín đã có thời cơ tiếp xúc với rất nhiều sách binh pháp. Cuốn “ Giám Lược – Tần Ký ” do Minh Lý Đình Cơ biên soạn viết : “ Hàn Tín chính là hậu duệ của Nước Hàn ”, hoàn toàn có thể nói tổ tiên của ông cũng từng là những tầng lớp quý tộc .
Sau khi mẹ qua đời, đời sống càng thêm gian truân, Hàn Tín thường không có cơm ăn. Bởi nghèo khó túng thiếu, ông bị người khác khinh miệt và nhục mạ, cũng có khi phải nhận sự bố thí của người ngoài. Trong lịch sử có rất nhiều điển cố tương quan đến thuở hàn vi của Hàn Tín, như “ Xương Đình chi khách ” ( làm khách nhà Xương Đình ), “ Thần xuy nhục thực ” ( thổi cơm sáng ăn ngay trên giường ), “ Khố hạ chi nhục ” ( chịu nhục chui háng ), “ Nhất phạn thiên kim ” ( Bát cơm ngàn vàng ), “ Năng khuất năng thân ” ( biết co biết duỗi ), v.v.
Chuyện kể rằng, đình trưởng đình Nam Xương biết Hàn Tín không phải kẻ tầm thường, dù hiện tại nghèo khó nhưng tương lai nhất định sẽ là bậc xuất chúng, vì thế đình trưởng đặc biệt quan trọng quan tâm đến Hàn Tín và thường mời ông tới nhà dùng cơm. Nhưng vợ của đình trưởng lại tỏ ra không mấy tự do, dần dà bà sinh lòng chán ghét bèn nghĩ cách đuổi ông đi. Bà cho mọi người ăn sáng sớm và nhu yếu người nhà nhanh gọn đem nồi niêu bát đĩa thu dọn thật sạch. Hôm ấy như thường lệ, Hàn Tín đến nhà đình trưởng đúng giờ, nhưng chờ đón ông là một chiếc bàn trống trơn, ngay cả một chút ít cơm thừa canh cặn cũng không còn. Kể từ đó, ông không còn đặt chân tới nhà đình trưởng thêm lần nào nữa. Hai câu thành ngữ : “ Xương Đình chi khách ” và “ Xương Đình lữ thực ” ( nghĩa là “ làm khách nhà Xương Đình ” ) đều sinh ra từ đây .
Chiến thần Hàn Tín : Cuộc đời và sự nghiệp lẫy lừng
Ngoài việc học tập, mỗi khi rảnh rỗi Hàn Tín thường ra sông buông câu. Có một bà lão thường đem quần áo ra sông giặt ( người đời sau gọi bà là Phiêu mẫu ), rất cảm thông với cảnh ngộ của Hàn Tín nên thường chia món ăn của mình cho ông. Hàn Tín vô cùng cảm kích, thề rằng sẽ báo đáp ân tình của bà lão. Sau này khi Hàn Tín áo gấm hồi hương, quả nhiên đã biếu khuyến mãi Phiêu mẫu rất nhiều bạc tiền để báo đáp ân huệ năm xưa. Thành ngữ “ Nhất phạn thiên kim ” ( Bát cơm ngàn vàng ) cũng từ đây mà ra, ý tứ là nhận một giọt ân huệ sẽ báo đáp bằng cả một dòng .
Những ghi chép tiên phong về Hàn Tín là “ Hoài Âm hầu liệt truyện ” trong “ Sử Ký ”, kể rằng thuở thiếu thời Hàn Tín là một kẻ ‘ ăn không ngồi rồi ’. Thực ra, Hàn Tín có tham vọng thống nhất thiên hạ, bình định giang sơn. Nhà Hán học Vương Minh Thịnh của triều đại nhà Thanh đã viết trong quyển 5 của “ Thập Thất Sử Thương Các ” : “ Lúc ( Hàn Tín ) chịu nhục sống nương nhờ, dựa trên những tri thức thường ngày, qua thời hạn dài nghiền ngẫm tỉ mỉ, ông đã tìm ra cách để ‘ chiến tất thắng, công tất thủ ’ ( đánh ắt thắng, tiến công ắt lấy được ), ngay cả khi phải đương đầu với hàng trăm vạn quân sỹ ”. Ông không riêng gì thuộc làu binh thư mà còn am hiểu tường tận về nhiều nghành, như thiên văn địa lý, pháp luật pháp lý cũng như quân sự chiến lược thường thức … không gì là không minh tỏ. Ngoài việc thuộc những điển cố trong lịch sử như Bắc Lý Hề phò trợ Tần xưng bá, Hàn Tín còn biên soạn binh thư, chỉnh lý những điều lệnh pháp lý trong quân đội, dẫn chứng rằng ông có kỹ năng và kiến thức phong phú và đa dạng, tri thức uyên bác, tuyệt nhiên không phải là một kẻ du thủ du thực .
Lúc Hàn Tín chưa thành danh có một điển cố nổi tiếng gắn liền với ông, gọi là “ chịu nhục chui háng ”. Dù rằng khi đó Hàn Tín thiếu cơm thiếu áo, nhưng với chí khí cao xa, khát vọng to lớn, ông thường đeo bên mình một thanh bảo kiếm. Trong thành Hoài Âm có kẻ vô lại là con trai của một đồ tể, cậu ta muốn làm nhục Hàn Tín nên đã chặn đường ông ở trên một con phố náo nhiệt và nói : “ Ngươi đeo bảo kiếm làm gì ? Đeo bảo kiếm thế có dám sát nhân không ? Dám sát nhân thì hãy chặt đầu ta đi, còn không, thì hãy chui qua háng ta ”. Đối mặt với lời khiêu khích giật mình này, Hàn Tín tỉnh bơ nhìn thẳng vào đối phương một hồi lâu mà không chút sợ hãi, sau cuối, ông thản nhiên cúi người chui qua háng của kẻ vô lại kia .
Giai thoại Hàn Tín luồn trôn – chịu nhục chui háng
Đại tông sư văn học Tô Thức trong “ Hoài Âm hầu miếu ký ” đã miêu tả cảnh giới không ngại nổi tiếng bị vấy bẩn ( “ nhục thân ô tiết ” ) để nuôi chí lớn anh hùng ( “ súc anh hùng chi tráng đồ ” ) của Hàn Tín thời niên thiếu : “ Ứng Long là Thần bởi giỏi biến hóa, biết khi nào nên nên duỗi. Mùa hạ bay lên trời, tựa như một thiêng vật, đông đến lại nằm cuộn tròn trong bùn nhơ để tránh tai ương … Tướng quân chính là cam chịu khét tiếng bản thân bị ô nhục, để ở ẩn che giấu kĩ năng, chí hướng như chim tước cất cánh, như báo vươn mình. Được phong Sở Vương, báo đáp ơn Phiêu mẫu. Ôm thao lược bá vương, nuôi tham vọng to lớn của bậc anh hùng. Hoài bão bình định thiên hạ bốn phương, chí hướng to lớn không gì sánh bằng, thế cho nên mà chịu nhục chui háng ” .
Người thản nhiên chịu nhục chui háng hoàn toàn có thể chia thành hai kiểu người : Một là người tinh thần sa sút, thích an phận, thường gọi là kẻ “ nhát gan ”, còn một là người có chí hướng vô cùng cao xa, biết co biết duỗi, tùy cơ ứng biến, là người vì mang thiên chức to lớn mà nhẫn nhục. “ Thời xưa, được gọi là anh hùng hào kiệt chắc như đinh phải là bậc có khí tiết hơn người, hoàn toàn có thể nhẫn điều mà người thường không hề nhẫn. Thất phu một khi bị sỉ nhục, liền không chịu nổi rút kiếm ra giao đấu, đây không phải là hành vi dũng mãnh. Bậc đại dũng trong thiên hạ, khi gặp chuyện giật mình sẽ không sợ hãi sợ hãi, không vô cớ nổi giận. Làm được vậy là do người đó có tham vọng vô cùng to lớn, chí hướng cao xa ” — ( Trích đoạn văn chú thích về sự hoàn mỹ của hành vi “ chịu nhục chui háng ” của Hàn Tín trong “ Lưu Hầu truyện ” của Tô Thức ) .
Người đời cho rằng việc Hàn Tín chịu nhục chui háng là biểu lộ cho tâm thái của bậc vĩ nhân. Tại nơi xảy ra vấn đề này năm đó, người Hoài Âm đã thiết kế xây dựng một cây cầu đặt tên là “ Khố Hạ kiều ” ( cầu chui háng ) để tưởng niệm Hàn Tín, bậc anh hùng có tham vọng vô cùng to lớn, tấm lòng khoan dung độ lượng, kiến thức và kỹ năng sâu rộng mà những kẻ tiểu nhân không hề so bì .
Chương 2 : Tài năng không gặp thời
Vào năm thứ 37 tại vị, Tần Thủy Hoàng đã bất thần từ trần ở Sa Khâu khi đang trên đường đi tuần. Tần Thủy Hoàng đã di chiếu cho công tử Phù Tô là người chủ trì tang lễ, thừa kế ngai vàng. Nhưng thái giám Triệu Cao là người quản trị chiếu thư, đã câu kết với thừa tướng Lý Tư trá hình chỉ dụ của Vua ban chết cho Phù Tô, hòng lập thiếu tử ( con thứ ) Hồ Lợi lên làm nhà vua, tức Tần Nhị Thế .
Sau khi lên ngôi Tần Nhị Thế đã lạm sát những cựu thần và người trong hoàng thất, cơ nghiệp đế quốc mà Tần Thủy Hoàng khó khăn vất vả kiến thiết xây dựng đã mở màn lung lay. Vào năm thứ nhất của Tần Nhị Thế ( năm 210 TCN ), Trần Thắng, Ngô Quảng đã dẫn 900 dân binh ở làng Đại Trạch nổi dậy “ trảm mộc vi binh, yết can vi kỳ ” ( chặt cây làm binh khí, giương sào tre làm cờ ), thử thách sự thống trị của Nhị Thế. Họ xây dựng chính quyền sở tại trên đất Trần, lấy quốc hiệu là “ Sở ”, cũng gọi là “ Trương Sở ”. Nhân sĩ phản Tần khắp nơi được thế nổi dậy, liên tục thiết kế xây dựng lực lượng riêng, phút chốc đã quần hùng cát cứ, liên tục lửa hiệu cấp báo, có vẻ như khí thế cuộc chiến tranh kinh khủng giữa những nước chư hầu thời Chiến Quốc đã quay trở lại .
1. Giương kiếm tòng quân
Trong số quần hùng, Hàn Tín để mắt tới chú cháu Hạng Lương, Hạng Vũ với thân thế hiển hách, binh cường tướng mạnh .
Hạng Lương là con của danh tướng nước Sở Hạng Yên, vì sát nhân nên phải trốn chạy đến Ngô Trung để tránh báo thù. Tại đây Hạng Lương rất có uy tín, những hiền sĩ đại phu đều nguyện dưới trướng ông. Hạng Lương tận dụng lợi thế đó bí mật chiêu binh mãi mã, tạo vây cánh .
Sau khi Trần Thắng và Ngô Quảng khởi binh được hai tháng, chú cháu Hạng Lương dẫn theo 8 nghìn quân hưởng ứng, từ Giang Đông vượt sông tiến đến, dọc đường đã thu nạp thêm Trần Anh, Anh Bố, Lữ Thần, Bồ tướng quân và những thuộc hạ, còn chiếm cứ được Bành Thành ở phía đông Q. Tần Gia. Trong quy trình này, cả Lưu Bang và Hàn Tín cũng đều gia nhập vào đội ngũ của Hạng Lương .
Không lâu sau Ngô Quảng bị thuộc hạ sát hại. Tháng 12 năm đó, tướng quân Chương Hàm của nhà Tần đã dẫn quân công phá đất Trần, Trần Thắng bị phu xe giết chết, nước Trương Sở bị diệt vong. Nghe theo đề xuất kiến nghị của Phạm Tăng, Hạng Lương bèn tôn Hùng Tâm là cháu của Sở Hoài vương lên làm vương, còn bản thân tự xưng là Vũ Tín Quân .
Sau khi đánh bại quân Trương Sở, Chương Hàm đã dẫn binh tiến công nước Ngụy. Ngụy vương cầu cứu nước Tề. Tiếp đó Chương Hàm lại vượt mặt liên quân Tề-Sở một cách thê thảm, truy kích tướng Tề Điền Vinh về tận Đông A. Hạng Lương hay tin Điền Vinh nguy cấp, lập tức dẫn viện binh hỗ trợ ứng cứu, đánh phá quân Tần. Chương Hàm thua chạy về mạn Tây, Hạng Lương dẫn binh truy kích và vượt mặt Chương Hàm ở Bộc Dương, ở đầu cuối truy đuổi đến Định Đào. Ở hướng khác, Hạng Vũ, Lưu Bang đại chiến với quân Tần tại Ung Khâu và giành đại thắng, trảm sát tướng Vì Sao của nước Tần .
Quân Tần liên tục bại trận, Chương Hàm điều động đến 10 vạn đại quân bổ trợ binh sĩ. Hạng Lương vì thắng nên kiêu, với vấn đề này không mảy may đếm xỉa. Hàn Tín đoán được mối nguy, nhưng bởi vị thế thấp kém, không có thời cơ cất lời khuyên can. Mưu sĩ của Hạng Lương là Tống Nghĩa cũng nhìn thấy nguy hại tiềm ẩn, can gián Hạng Lương phòng bị quân Tần giật mình tập kích, nhưng Hạng Lương lại không nghĩ vậy. Với ý thức vô cùng mừng thầm, quân Tần thừa cơ Hạng Lương lơ là phòng thủ đã giật mình tập kích, tàn phá đại bộ phận quân nòng cốt của Hạng Lương, bản thân Hạng Lương cũng tử trận .
2. Hạng Vũ xuất thế
Sau khi Hạng Lương chết, Hạng Vũ lên thống lĩnh quân đội. Hạng Vũ thân cao hơn tám thước, sức nâng đỉnh ngàn cân, là một vị tướng quân võ dũng nổi tiếng nhất trong lịch sử, được người đời sau ca tụng là “ Vũ chi thần dũng, thiên cổ vô nhị ” ( nghĩa là vị tướng dũng mạnh như thần, không có người thứ hai ) .
Thời niên thiếu, khi Hạng Vũ thấy Tần Thủy Hoàng đi tuần với hình dáng oai nghiêm vạn người kính ngưỡng, ông liền tự mãn nói với Hạng Lương : “ Có thể thay người đó được. ”
Hạng Vũ thấy Hàn Tín to lớn, anh tuấn uy vũ, liền chỉ định ông làm võ quan thị vệ Chấp kích lang, vì thế Hàn Tín có thời cơ tiếp xúc gần với Hạng Vũ .
Sau đại chiến Định Đào, lo ngại niềm tin quân Sở sa sút, Sở Hoài Vương bèn lệnh cho Hạng Vũ dẫn quân rút về Bành Thành để có địa thế căn cứ tiến lui. Chương Hàm thấy nhất thời khó giành phần thắng, liền chuyển hướng tiến đánh nước Triệu ở phía Bắc. Khi Triệu Vương nguy khốn bị vây hãm ở Cự Lộc, cầu viện trợ từ những nước chư hầu. Nước Tề và nước Yến đều phái viện quân, đại tướng Trần Dư của nước Triệu và Trương Ngao của nước Đại đã dẫn quân đến, “ quân chư hầu dẫn quân tới cứu Cự Lộc đóng tới 10 doanh lũy mà đều không dám xuất binh ”. ( Sử ký, Hạng Vũ bản kỷ ). Tuy nhiên, dưới ánh mắt trừng trừng thị uy của quân Chương Hàm, không ai dám khai chiến với quân Tần .
Vào mùa đông năm thứ 3 Tần Nhị Thế, Sở Hoài Vương cũng phái hai lộ viện binh hỗ trợ : Một lộ quân do Tống Nghĩa làm thượng tướng quân, Hạng Vũ làm phó tướng, dẫn 5 vạn quân đi cứu viện nước Triệu ; Một lộ do Lưu Bang làm tướng tiến đánh Hàm Dương, và giao ước rằng ai lấy được Quan Trung trước thì sẽ làm vương .
Sau khi Tống Nghĩa đến được An Dương, ngưng lại 46 ngày không đi, ý đồ ngồi xem Tần-Triệu giao đấu, còn mình làm “ ngư ông đắc lợi ”. Không có viện quân, nước Triệu chắc như đinh không hề địch lại Chương Hàm. Nếu Chương Hàm xử lý xong nước Triệu, thì tiềm năng sau đó sẽ là tân bại quốc – nước Sở. Lúc này An Dương trời mưa lớn, giá rét, quân Sở thiếu lương thực, binh lính vừa đói vừa rét, trì hoãn nữa thì ắt sẽ xảy ra đại biến. Hạng Vũ nhiều lần khuyên gián bắc tiến cứu Triệu, nhưng đều bị Tống Nghĩa gạt đi, không chỉ có vậy còn hạ lệnh trong quân binh ai không tuân lệnh thì chém. Cùng đường, Hạng Vũ vạn bất đắc dĩ phải giết Tống Nghĩa, tự đảm nhiệm chức thượng tướng quân. Sở Hoài Vương ở xa ngoài tầm với, đành phải đồng ý chấp thuận .
Số lượng quân Sở kém xa quân Tần, những lộ quân cứu viện lại sợ thanh thế của quân Tần, xây trại tự thủ đứng ngoài cuộc. Hạng Vũ chỉ còn cách một mình tác chiến. Hạng Vũ bình tĩnh hành vi, trước hết phái Anh Bố dẫn 2 vạn quân Sở chặn đứt con đường tiếp ứng giữa Chương Hàm và phần còn lại của quân Tần, sau đó tự mình dẫn ba vạn binh sĩ qua sông. Sau đó “ làm đắm thuyền, đập vỡ nồi, đốt nhà cửa, chỉ mang lương thực ăn trong ba ngày, dù toàn bộ binh sĩ tử trận cũng không thay lòng đổi dạ. ” ( Sử ký – Hạng Vũ bản kỷ ). Bởi không còn đường lui, binh sĩ chỉ còn cách liều chết một phen, và thành ngữ “ Đập nồi dìm thuyền ” ( Phá phủ trầm chu ) sinh ra từ đây .
Vừa đến Cự Lộc, quân Sở nhanh như chớp vây hãm quân Tần, toàn quân lấy 1 địch 10, Hạng Vũ tiên phong ra trận làm gương, quả cảm đi đầu chém giết, “ tiếng hét của Hạng Vũ kinh động cả đất trời ” ( Tiền Hán Ký ). Quân Sở càng chiến đấu càng dũng mãnh, đánh cho quân Tần kinh hồn bạt vía, sau cuối, quân Sở tiến đánh 9 trận, thắng 9 trận. Tướng Tô Giác của Tần tử trận, Vương Ly bị bắt làm tù binh, Thiệp Gian không chịu hàng đã tự thiêu. Quân tiếp viện của chư hầu ở bên đứng xem sững người kinh ngạc, mãi đến khi quân Tần tháo chạy mới dám ra khỏi doanh trại trợ chiến, giải vây Cự Lộc .
Với sự áp sát từng bước của Hạng Vũ, Chương Hàm liên tục bại trận tháo chạy. Cuối cùng, đến tháng 7 năm Tần Nhị Thế 3, Chương Hàm đã dẫn theo 20 vạn quân lính đầu hàng Hạng Vũ tại Ân Khư. Quân nòng cốt của Tần công bố tan rã, như vậy, một quân đội hùng mạnh từng tàn phá lục quốc, vượt mặt Hung nô, giờ đã tan thành mây khói .
Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, Hạng Vũ triệu kiến những tướng lĩnh chư hầu, những tướng đều quỳ gối mà tiến vào, không ai dám ngẩng đầu ngước nhìn. Triệu Vương cũng đến bái kiến, quỳ tạ Hạng Vũ đã giải cứu. Hạng Vũ được lập làm “ Thượng tướng quân của những nước chư hầu ”, làm Thống soái quân đội của những lộ chư hầu .
Hạng Vũ đã cho quốc tế thấy năng lực bất phàm của một người anh hùng hào kiệt. Tài năng tiêu biểu vượt trội của ông đã khiến tổng thể võ tướng trên sa trường lúc bấy giờ trở nên mờ nhạt, đồng thời cũng viết lên một câu truyện thần thoại cổ xưa bất hủ cho lịch sử Trung Quốc .
3. Lưu Bang nhập quan
Hạng Vũ sau khi xử lý xong quân nòng cốt của Tần đã trở thành “ Thượng tướng quân của những chư hầu ”, nhưng ông không phải là người tiên phong tiến công đánh hạ đô thị Hàm Dương của nước Tần, mà là Lưu Bang .
Lưu Bang xuất thân là một thường dân ở Trung Dương, ấp Phong, Q. Bái. Năm 48 tuổi ông khởi binh tại huyện Bái, nên được tôn là Bái Công. Thời trẻ, ông cả ngày thảnh thơi rong chơi, không có việc làm đàng hoàng, bạn hữu xung quanh cũng là những người du thủ du thực giống như ông. Ngoài ra ông còn là người hào phóng, biết lấy lòng người, do đó có quan hệ rộng ; sau này trở thành đình trưởng của Tứ Thủy .
Lưu Bang không thích đọc sách, trong lòng cũng xem thường những người đọc sách. Trong sách sử có ghi, có nho sinh đến cầu kiến, Lưu Bang liền tháo mũ của anh ta xuống và tiểu vào đó, còn chửi bới ầm ĩ. Năm đó, khi Lệ Thực Kỳ đến cầu kiến, môn nhân nói là một học trò ( người đọc sách ), Lưu Bang phủ nhận không gặp. Cuối cùng Ly Thực Kỳ tự xưng là “ sâu rượu ” Cao Dương, Lưu Bang liền hấp tấp vội vàng mời anh ta vào và vui tươi tiếp đãi. Ông ta rất biết dùng thủ đoạn mưu quyền, tùy cơ ứng biến, lựa gió bỏ buồm, biết cách trấn áp thuộc hạ có năng lượng hơn mình, nên dưới trướng ông ta có không ít hiền sĩ kĩ năng ; do đó, ông ta cũng “ có tài ” hơn người ở chỗ hớt tay trên thành quả của người khác .
Trong khi Hạng Vũ đang giao chiến kịch liệt với quân Tần, ở nơi mặt trận nguy hại nhất phá vòng vây của địch, thì Lưu Bang lại dẫn quân xông vào Quan Trung. Lúc đó Triệu Cao đã giết chết Tần Nhị Thế, vô hiệu đế hiệu nhà Tần, sau đó Tử Anh lại giết Triệu Cao, xưng là Tần vương. Lưu Bang tiến công Hàm Dương, Tử Anh không có năng lực kháng cự, thế cho nên đã cho làm xe bạch mã, treo cờ rủ hai bên đường, tự tay bưng ngọc tỷ phù tiết của Hoàng đế xin hàng Lưu Bang, đến đây triều Tần diệt vong .
Lưu Bang tiến vào thành Hàm Dương, nhìn thấy sự hoành tráng mỹ lệ của cung Hàm Dương, và những thứ chuyên sử dụng của Hoàng đế màn trướng, xe ngựa, bảo vật và phụ nữ, kinh ngạc ngắm nhìn, quyến luyến không muốn buông tay, tính nghỉ ngơi trong hoàng cung nghỉ ngơi. Phàn Khoái và Trương Lương thay nhau tận sức khuyên giải, ở đầu cuối, đã thuyết phục được Lưu Bang phong bế hoàng cung và phủ khố, dẫn quân đến Bá Thượng đồn trú. Đồng thời theo yêu cầu của Tiêu Hà làm ra “ ước pháp tam chương ” ( ba pháp luật cơ bản ) : Giết người phải đền mạng, đả thương người và trộm cắp phải đền tội, đồng thời phế trừ lao lý nhà Tần, còn những phương diện khác vẫn giữ nguyên như cũ. “ Người Tần hoan hỉ, tranh nhau mang dê bò rượu thịt dâng khuyến mãi ngay thiết đãi quân sĩ ”. ( Sử ký, Cao Tổ Bản Kỷ ) .
Hạng Vũ đang chính diện tác chiến, vào sinh ra tử, nhưng thắng lợi lớn nhất lại bị Lưu Bang dễ dàng hớt tay trên. Bởi căm phẫn cực độ, nên sau đại chiến Cự Lộc, Hạng Vũ lập tức dẫn theo 40 vạn quân binh trùng trùng áp sát đánh tới Quan Trung, trú đóng ở Hồng Môn bên ngoài thành Hàm Dương. Mưu sĩ Phạm Tăng hiến kế, nói rằng Lưu Bang lúc ở Quan Đông thì tham tiền háo sắc, lần này lại không lấy tài vật, không luyến ái mỹ nữ, xem ra dã tâm không nhỏ, nên sớm trừ khử. Quan tả tư mã của Lưu Bang là Tào Vô Thương cũng phái người báo tin chứng thực dã tâm xưng Vương của Lưu Bang. Hạng Vũ lập tức hạ lệnh sáng sớm hôm sau sẽ tiến công.
Toàn bộ binh sĩ của Lưu Bang chỉ có 10 vạn, lực chiến đấu lại kém xa quân Sở. Nếu như hai quân cạnh tranh đối đầu, không đánh cũng tự rõ hiệu quả. Chú của Hạng Vũ là Hạng Bá vì báo đáp ơn cứu mạng của Trương Lương, đã cưỡi ngựa suốt đêm đến Bá Thượng để báo tin cho Trương Lương. Trương Lương không muốn một mình chạy thoát thân, liền lập tức cấp báo Lưu Bang. Lưu Bang nghe xong vô cùng kinh hãi, mặt biến sắc, chân tay luống cuống .
Với tương quan lực lượng quá chênh lệch như vậy, nhận mình là kẻ yếu xin tha là thượng sách. Vì vậy, sau khi Lưu Bang và Trương Lương bàn luận sơ qua, bèn lập tức triệu mời Hạng Bá vào quân trướng kính rượu hàn huyên, gắng sức lôi kéo, còn hứa gả con gái của mình cho con trai của Hạng Bá, kết làm thông gia. Nhân lúc hai bên đang trò chuyện vui tươi, Lưu Bang bộc bạch rằng bản thân không hề có dã tâm xưng Vương, tổng thể những gì mình làm khi tiến vào Quan Trung đều là để sẵn sàng chuẩn bị cho Hạng Vũ nhập quan. Hạng Bá nhận lời sẽ nói giúp Lưu Bang với Hạng Vũ, và dặn dò Lưu Bang ngày hôm sau hãy đích thân đến cảm tạ Hạng Vũ .
Hạng Vũ nắm trong tay lực lượng quân đội hùng hậu, xem thường thiên hạ, vốn cũng không để mắt tới Lưu Bang, lại thêm Hạng Bá khua môi múa mép, chỉ vài ba câu đã bị thuyết phục, liền bỏ kế hoạch tiến công Bá Thượng .
Ngày hôm sau, Lưu Bang dẫn theo Trương Lương và đại tướng Phàn Khoái đích thân đến Hồng Môn, tỏ ý rằng bản thân chỉ đang trấn giữ Hàm Dương, chờ Hạng Vũ đến xưng Vương. Hạng Vũ tin cậy Lưu Bang, cho bày yến tiệc thiết đãi Lưu Bang. Phạm Tăng, người được được Hạng Vũ gọi là “ á phụ ” ( cha nuôi ), vẫn luôn cho rằng Lưu Bang là mầm đại họa, một mực kiên trì thỉnh cầu Hạng Vũ tại yến tiệc hãy giết Lưu Bang, để nhổ cỏ tận gốc, tiệt trừ hậu họa. Bữa tiệc bốn bề ngập tràn sát khí này chính là bữa tiệc “ Hồng Môn Yến ” nổi tiếng trong lịch sử .
Trong bữa tiệc, Phạm Tăng ngồi bên cạnh Hạng Vũ, vài lần ra ám hiệu cho Hạng Vũ động thủ giết Lưu Bang, nhưng Hạng Vũ lại vờ như không thấy. Phạm Tăng sai đại tướng Hạng Trang đến trước bàn rượu múa kiếm góp vui, muốn lựa thời cơ ám sát Lưu Bang. Hạng Bá cũng nhanh gọn rút kiếm múa theo, dùng thân mình che cho Lưu Bang, Hạng Trang không sao ra tay. Thấy tình thế cấp bách, Trương Lương hấp tấp vội vàng ra ngoài gọi Phàn Khoái. Phàn Khoái khi xưa từng mưu sinh bằng nghề giết chó, ông ta là bộ hạ dũng mãnh nhất dưới trướng Lưu Bang .
Vừa nghe Lưu Bang gặp nạn, Phàn Khoái liền cầm khiên và kiếm xông thẳng vào quân trướng. Binh sĩ canh phòng muốn ngăn lại, nhưng bị Phàn Khoái dùng khiên xô một cái, tổng thể ngã nhào ra đất. Phàn Khoái vén màn che, trừng mắt nhìn Hạng Vũ, giận đến tóc tai dựng ngược, đuôi mắt như muốn rách nát ra, quát mắng Hạng Vũ : “ Lưu Bang cộng hạ được Hàm Dương, không hề chiếm đất xưng vương, mà quay về Bá Thượng đợi hoàng thượng tới. Một người có công như vậy, ngài không những không phong thưởng, lại còn tin lời tiểu nhân, muốn sát hại huynh đệ của mình ! ”
Hạng Vũ nghe vậy trong tâm thấy hổ thẹn. Lưu Bang thừa cơ vờ vịt đi vệ sinh, dẫn theo tùy tùng chạy về quân doanh ở Bá Thượng. Mưu sĩ Phạm Tăng thấy Hạng Vũ thiếu quyết đoán thả Lưu Bang chạy thoát, nên vừa phẫn nộ vừa vô vọng, thời dài than vãn : “ Ôi ! Tên tiểu tử này không hề cùng bàn mưu đại sự, người đoạt thiên hạ của Hạng Vương tất là Bái Công ! Chúng ta rồi sẽ bị bắt làm tù binh ! ” .
Lưu Bang sau khi quay trở về doanh trại liền lập tức xử tử Tào Vô Thương. “ Hồng Môn Yến ” sau này trở thành một danh từ chỉ “ một bữa tiệc mà gia chủ của nó không có ý tốt ”, và đây cũng là sự tích của thành ngữ “ Hạng Trang vũ kiếm, ý tại Bái công ” .
Chương 3 : Anh hùng gặp Minh chủ
1. Bỏ Sở theo Hán
Sau Hồng Môn Yến, Hạng Vũ dẫn chư hầu tiến vào Hàm Dương. Tần vương Tử Anh tuy là quân vương của nước bại trận, nhưng dù sao thân vẫn là bậc đế vương, Hạng Vũ không những không trọng đãi Tử Anh đúng mực, ngược lại còn cho giết chết Tử Anh và toàn bộ vương tộc, tôn thất cùng đại thần của nước Tần. Đồng thời, còn đại hỏa thiêu lăng Tần Thủy Hoàng và cung Hàm Dương, lửa cháy suốt ba tháng chưa tắt .
Trận đại hỏa này đã gây tổn hại vô cùng to lớn cho văn hóa truyền thống Trung Quốc. Trong chốc lát, hàng loạt tài liệu mà Tần Thủy Hoàng dày công thiết kế xây dựng sau khi thống nhất thiên hạ và vô số điển tịch văn hóa truyền thống của thời đại Tiên Tần đã bị hủy hoại. Hầu hết những ghi chép hàng nghìn năm về nền văn minh Hoa Hạ từ nhà Tần quay trở lại trước đều bị thiêu sạch trong một mồi lửa .
Một sai lầm đáng tiếc vô cùng to lớn khác của Hạng Vũ là đẩy quốc gia Trung Quốc đã thống nhất lùi trở lại cục diện chư hầu cát cứ một lần nữa. Vào thời gian đó, rất nhiều kẻ sĩ đã khuyên ông nên xưng đế và đóng đô tại Hàm Dương, bởi Quang Trung được chặn bởi núi, được bao bởi sông, địa thể dễ thủ khó công, và là một vùng đất phì nhiêu phì nhiêu, quả là một khu vực lý tưởng để dựng đô xưng bá. Nhưng Hạng Vũ lại một mực muốn đông quy ( hướng về quê nhà ), ông nghĩ : “ Phú quý không về quê, khác nào áo gấm đi đêm ”. Cuối cùng, Hạng Vũ khăng khăng phân đất phong hầu, bãi bỏ trọn vẹn chính sách quản trị và TW tập quyền của nhà Tần, lập ra 18 vương chư hầu, bản thân ông cũng là Sở Bá Vương, có quyền lực tối cao tương tự với nhà vua, lúc này, Hạng Vũ đang ở đỉnh điểm huy hoàng. ( Ghi chú : Từ “ Bá ” thời xưa thường hiểu với nghĩa bá trong “ bá trọng quý thúc ” ( thứ tự anh em trai : cả, hai, ba, tư ), ý chỉ người anh cả hay “ lão đại ” trong những vương, cũng tức là vương trong những vương ) .
Về phần Hàn Tín, thân là cận vệ của Hạng Vũ, đã nhiều lần bày hiến kế, nhưng Hạng Vũ khá tự phụ và tự cho mình là bất khả chiến bại trong thiên hạ, nên không để mắt tới đề xuất kiến nghị của một cận vệ sĩ nhỏ bé. Chỉ riêng việc cho thiêu rụi Hàm Dương và phân đất phong hầu đã đủ thấy Hạng Vũ là người thiển cận, hành vi cảm tính. Hàn Tín nhận thấy nếu đi theo Hạng Vũ, ông sẽ không hề triển khai được tham vọng lớn lao của mình. Bởi vậy, sau khi nghiên cứu và phân tích lần lượt 18 chư hầu, sau cuối ông đã hướng mắt vào Hán Trung Vương Lưu Bang .
Vào năm đầu Hán Cao Đế, tháng 4 ( năm 206 TCN ), những vương chư hầu sau khi nhận phân đất phong hầu đều thi nhau bãi binh dựng nước. Hạng Vũ cũng “ áo gấm hồi hương ”, vui mừng trở về Bành Thành làm Tây Sở Bá Vương. Nhưng Hạng Vũ vẫn không yên tâm về Lưu Bang, nên đã không phong Lưu Bang làm Quan Trung Vương theo đúng giao ước, và lại ngưng trệ ông ở Hán Trung, Ba Thục, nhằm mục đích hạn chế ông tăng trưởng lực lượng .
Vào thời nhà Tần, vùng đất Ba Thục vẫn còn chưa tìm hiểu và khám phá, là nơi rừng thiêng nước độc, nghèo khó hoang tàn, “ tội nhân thời Tần đều bị lưu đày đến đó ” ( “ Tư Trị Thông Giám ”, quyển 9 ), nhưng nó vẫn thuộc về “ đất Quan Trung ”. Bởi vậy, việc phong đất Ba Thục cho Lưu Bang cũng hoàn toàn có thể coi là Hạng Vũ không làm trái giao ước. Còn những vùng đất phì nhiêu của Quan Trung được phân cho ba vị tướng Tần là Chương Hàm, Tư Mã Hân và Đổng Tiễn, hình thành thế vây hãm so với Lưu Bang, chặn lại con đường Lưu Bang tiến quân vào Tập Đoàn Cafe Trung Nguyên .
Lưu Bang vô cùng phẫn nộ nhưng lực bất tòng tâm. Hạng Vũ chỉ được cho phép ông dẫn theo ba vạn binh mã, đại thần dưới trướng chỉ có Tiêu Hà được tính là hiền tài trị quốc. Mưu sĩ Trương Lương ( vốn là người nước Hàn ) lúc đó đã đang phò tá Hàn Vương Thành, còn những võ tướng khác như Tào Tham, Chu Bột, Phàn Khoái, Hạ Hầu Anh, Quán Anh đều không phải là những nhân vật xuất chúng, cơ bản không phải là đối thủ cạnh tranh của Hạng Vũ. Bởi vậy nếu như đối chọi, nhất định là trăm chiến trăm bại. Lưu Bang chỉ hoàn toàn có thể bấm bụng nhẫn chịu, dẫn quân tây tiến vào Hán Trung .
Đúng lúc này, Hàn Tín lặng lẽ rời khỏi Hạng Vũ, gia nhập đoàn người của Lưu Bang tiến vào Hán Trung. Từ đây, vận mệnh của hai nhân vật lịch sử Lưu Bang và Hạng Vũ này đã đổi khác, và cũng chính là đổi khác khunh hướng tăng trưởng của lịch sử .
2. Liễu ám hoa minh
Sạn đạo Tần Lĩnh ( đường làm bằng cọc gỗ lát ván, chạy men theo những vách núi và bờ vực chênh vênh ) là độc đạo dẫn từ Quan Trung đến Hán Trung. Trước khi chia tay thấy Lưu Bang đang lâm vào tình cảnh bất lợi, Trương Lương đã ý kiến đề nghị ông hãy thiêu hủy hàng loạt những sạn đạo mà họ đã đi qua. Một mặt là để phòng ngừa những chư hầu như Chương Hàm tiến công vào Hán Trung, và điều quan trọng hơn nữa là khiến Hạng Vũ lơ là, tin rằng Lưu Bang không có dã tâm đoạt tranh đoạt thiên hạ. Nhưng mặt khác, điều đó cũng khiến bản thân Lưu Bang bị phong bế trọn vẹn ở đất Thục, nếu không có kỳ mưu diệu kế gì thì có năng lực sẽ già ở Hán Trung. Lưu Bang không còn lựa chọn nào khác, chỉ hoàn toàn có thể trước hết giữ cho bản thân bình an, rồi mới tính đến những phương kế khác .
Khi mới đến doanh trại quân Hán, Hàn Tín vừa không có công trạng vừa không có thế lực, chỉ được làm chức “ liên ngao ” nhỏ nhoi, và sử sách cũng không có ghi chép rõ ràng về việc làm đơn cử của chức quan này. Với chức vị thấp kém như vậy làm thế nào Hàn Tín hoàn toàn có thể có thời cơ để triển khai tham vọng to lớn của mình đây ! Đã vậy, ngay vào lúc Hàn Tín đang cảm thấy vô cùng chán nản, thì lại vi phạm quân pháp mà sắp bị xử tử. Tận mắt tận mắt chứng kiến 13 người khác cùng vi phạm đều đã bị xử trảm, thấy sắp đến phiên mình, Hàn Tín ngửa mặt nhìn trời, vừa hay trông thấy Hạ Hầu Anh đi ngang qua, bèn lớn tiếng nói : “ Hán Vương chẳng phải phải muốn có được thiên hạ ư ? Sao lại muốn xử tử tráng sĩ thế ? ” ( Sử Ký – Hoài Âm Hầu liệt truyện ) .
Hạ Hầu Anh cùng Lưu Bang vốn thân nhau từ thuở nhỏ, và là một trong những người thân tín nhất của Lưu Bang, đã nam chinh bắc chiến, vô cùng trung thành với chủ. Hạ Hầu Anh là một trong bốn vị tướng sĩ xuất hiện tại Hồng Môn yến, vì thế khi nghe Hàn Tín nói ông không khỏi giật mình. Việc Lưu Bang muốn tranh thiên hạ vốn là bí hiểm trong những bí hiểm, quân sĩ nhỏ bé này sao hoàn toàn có thể biết được chứ ? Ông nhìn kỹ Hàn Tín một lượt, thấy Hàn Tín tướng mạo anh tuấn uy vũ, khí phách hơn người, liền cởi trói và kéo Hàn Tín đến một bên gặng hỏi cặn kẽ. Sau một hồi trò chuyện, ông nhanh gọn bị kiến giải và tài trí của Hàn Tín chinh phục, lập tức tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang .
Sau khi tiến vào Hán Trung, Lưu Bang cứ mãi sầu não, cũng không để tâm đến lời tiến cử của Hạ Hầu Anh, không buồn gặp mặt Hàn Tín, chẳng qua vì nể mặt của bộ hạ cũ mà thăng Hàn Tín lên chức trị lật đô úy quản trị lương thảo. Chức trị lật đô úy này đã cho Hàn Tín có thời cơ tiếp xúc trực tiếp với tướng quốc Tiêu Hà của nhà Hán. Tiêu Hà rất kinh ngạc khi thấy Hàn Tín sáng suốt và gan góc hơn người, trí tuệ xuất chúng, hiểu sâu binh pháp, và khẳng định chắc chắn đây chính là tướng tài mà quân Hán đang cần, liền hấp tấp vội vàng tiến cử với Lưu Bang .
Tiêu Hà với Lưu Bang vừa là đồng hương, vừa là bạn tri kỷ từ thuở hàn vi, thế nhưng sự tiến cử của Tiêu Hà vẫn là chưa đủ để Lưu Bang thực sự coi trọng Hàn Tín. Sau một thời hạn chờ đón, Hàn Tín trong lòng tuyệt vọng, dự trù đi tìm con đường khác .
Quân Hán đều là người Quan Đông và người nhà đều ở lại cố hương, Lưu Bang cũng không ngoại lệ. Quân sĩ chỉ mong Lưu Bang mau chóng hoàn toàn có thể đánh về quê nhà để được sum vầy với người nhà. Sau khi Lưu Bang thiêu hủy sạn đạo, không có bất kể giải pháp trong thực tiễn nào để hoàn toàn có thể đánh về Quan Trung, tuyệt vọng xen lẫn nỗi nhớ quê nhà bao trùm khắp quân doanh. Lâu dần rất nhiều binh sĩ đã mất kiên trì, thi nhau đào binh, ngay cả tướng lĩnh cũng đã có đến mấy chục người bỏ trốn. Cuối cùng đến một ngày, Hàn Tín cũng lặng lẽ rời khỏi doanh trại quân Hán .
Việc Hàn Tín bỏ đi đã kinh động đến Tiêu Hà. Trong mắt Tiêu Hà, Hàn Tín có sức nặng vượt xa hết thảy những đại tướng mà quân Hán đang có. Tiêu Hà lòng như lửa đốt, không kịp bẩm báo Lưu Bang đã gấp gáp lên đường đuổi theo Hàn Tín. Lúc đó, khi trời đã tối, dưới ánh trăng non, Tiêu Hà vung roi thúc ngựa phi như bay biến mất trong màn đêm. Đó chính là giai thoại thiên cổ “ Tiêu Hà nguyệt hạ truy Hàn Tín ” ( Dưới ánh trăng, Tiêu Hà thúc ngựa đuổi theo Hàn Tín ) .
Biết tin Tiêu Hà ra khỏi quân doanh, Lưu Bang không khỏi sửng sốt, thấp thỏm đến mất bình tĩnh, đứng ngồi không yên, như thể mất đi thủ túc. Về phần Tiêu Hà, ông cũng sợ hãi không kém, bởi ông biết rằng Hàn Tín là cứu tinh duy nhất của quân Hán, nếu mất đi Hàn Tín, quân Hán chẳng khác gì một đạo quân ô hợp. Nếu như Hàn Tín đầu quân dưới trướng kẻ khác mà đối phó lại quân Hán, thì hậu quả càng không hề tưởng tượng nổi .
Hàn Tín vẫn chưa nghĩ thông sẽ đi đâu, lại thêm tâm trạng sầu não, vậy nên cũng không đi được nhanh. Đến nửa đêm, khi Hàn Tín tới bờ sông Hàn Khê, nước sông dâng cao, không cách nào vượt sông. Tiêu Hà một mạch vừa hỏi han tin tức vừa đuổi theo Hàn Tín, từ xa xa trông thấy thấp thoáng dưới ánh trăng bên cạnh sông Hàn Khê có kẻ đơn thân độc mã đang men theo bờ tìm cách vượt sông, và người đó không phải ai khác chính là Hàn Tín .
Lưu Bang vì chuyện Tiêu Hà bất ngờ đột ngột bỏ đi mà không an tâm mấy ngày đêm, dó đó, khi Tiêu Hà đưa Hàn Tín về lại doanh trại, lúc phảng phất thấy mất bóng hình Tiêu Hà, Lưu Bang còn ngỡ mình đang nằm mơ. Lưu Bang vừa kinh ngạc, vừa vui mừng lại vừa phẫn nộ, không kìm nổi cơn giận đã trách hỏi Tiêu Hà cớ sao lại bỏ đi. Lưu Bang không tin rằng Tiêu Hà vì đuổi theo Hàn Tín mà vội đi không nói lời từ biệt, vặn hỏi tại sao mỗi ngày ở đây đều có vài chục hoặc cả trăm binh sĩ bỏ trốn, chỉ tính riêng tướng lĩnh trốn đi cũng đã hơn mấy chục người, hà cớ gì người khác bỏ trốn thì không đuổi theo, và lại cứ đuổi theo Hàn Tín ?
Lúc này Tiêu Hà nói rằng những quân nhân khác đều thuộc hạng người thông thường, họ đi hay ở cũng không quan trọng ; còn Hàn Tín lại khác, là kỳ tài thiên hạ vô song. Nếu Lưu Bang muốn cả đời an phận làm vương ở Hán Trung, [ thì chẳng cần Hàn Tín làm gì ], nhưng nếu muốn thiết kế xây dựng nghiệp đế vương, không có Hàn Tín phò tá thì không được .
Nghe đến đây, Lưu Bang không hề không nhìn kỹ Hàn Tín lại lần nữa. Sau một hồi trầm ngâm tâm lý, Lưu Bang chấp thuận đồng ý đề bạt Hàn Tín làm tướng quân. Tiêu Hà quả quyết rằng chức vị tướng quân vẫn là thiệt thòi cho bậc kỳ tài như Hàn Tín. Cuối cùng Lưu Bang bất đắc dĩ để Hàn Tín làm đại tướng quân và cho triệu kiến Hàn Tín, xem xem người này rốt cuộc có tài năng đến mức độ nào. Tuy nhiên, Tiêu Hà lại không đồng ý chấp thuận, nói rằng bậc đại tướng quân mà hô tới quát lui như vậy thì thật thiếu tôn trọng, cần phải dựa theo khuôn phép chọn ra ngày lành hoàng đạo, trai giới tắm gội, lập đàn sắc phong mới tỏ rõ được thành ý .
Mời xem tiếp PHẦN 2 : Một tay gây dựng cơ đồ nhà Hán
Tổ nghiên cứu về các nhân vật thiên cổ anh hùng của 5000 năm văn hóa Thần truyền. Từ Epoch Times.
Giang Bằng biên dịch
votes
Đánh giá bài viết
[ Quảng Cáo ]
Continue Reading