Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt – Chia sẻ kiến thức mỗi ngày
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm trọng tâm trong chương trình Ngữ văn lớp 12. Chính vì vậy, Donwload.vn sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt.Tài liệu sau bao gồm dàn ý và 3 bài văn mẫu, hy vọng có thể giúp cho học sinh lớp 12 khi chuẩn bị cho kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới.
Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
Dàn ý phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt.
– Giới thiệu về nhân vật người vợ nhặt với vẻ đẹp khuất lấp.
2. Thân bài
a. Giới thiệu chung nhân vật
– Là một trong ba nhân vật chính trong tác phẩm.
– Được khắc họa với những nét đối lập giữa ngoại hình tính cách, từ đó nổi bật lên là vẻ đẹp khuất lấp.
b. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt
– Tình cảnh sống nghèo khổ, thảm hại nhưng có lòng ham sống mãnh liệt.
– Tuy vẻ ngoài nhếch nhác, nhưng thực chất lại là người hiểu biết, ý tự và đúng mực.
– Tính cách chỏng lỏn nhưng thực chất là một người phụ nữ hiền hậu, biết vun vén cho gia đình.
3. Kết bài
– Đánh giá về vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt.
– Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt.
Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt – Mẫu 1
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Truyện đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Điều đó được thể hiện qua vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt.
Người vợ nhặt hiện lên với vẻ ngoài xấu xí, thê thảm. Thị là nạn nhân của xã hội đói nghèo, cơ cực bị cuộc sống mưu sinh vắt kiệt sự sống. Tuy không được miêu tả nhiều nhưng vẫn hiện lên với những vẻ đẹp đáng trân trọng. Với tài năng miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã xây dựng nhân vật đầy sống động, gây bất ngờ với những thay đổi ban đầu và về sau, trong cái đối lập giữa vẻ bề ngoài với những giá trị bên trong.
Thị là nạn nhân của nạn đói, đứng trên ranh giới của sự sống và cái chết, chị ta sống lang bạt, vất vưởng. Đây cũng là cơ duyên để chị ta gặp gỡ và nên vợ nên chồng với anh Tràng. Tuy nhiên đối lập với cảnh trôi dạt, vất vưởng ấy lại là lòng ham sống mãnh liệt. Chỉ vì bốn bát bánh đúc, chị ta chấp nhận theo không anh Tràng – một người đàn ông xấu xí, nghèo khổ về làm vợ vừa là con đường chạy trốn với cái đói, cái chết vừa thể hiện khát khao hạnh phúc mãnh liệt ở người đàn bà ấy. Nếu đặt trong hoàn cảnh bình thường, có lẽ thị sẽ không theo Tràng về làm vợ. Giống như lời bà cụ Tứ thầm nghĩ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Thế mới thấy được khao khát sống mãnh liệt của người vợ nhặt.
Tiếp đến, Kim Lân đã khắc họa hình ảnh người vợ nhặt hiện lên thật thê thảm, rách rưới. Lần thứ hai gặp lại Tràng, thị trở nên khác hẳn: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chỉ với vài nét miêu tả thôi, nhưng ta đã thấy được tình cảnh thảm hại của thị. Nhưng không chỉ xấu xí, rách rưới mà ấn tượng đầu tiên chị ta mang đến cho độc giả là sự chao chát, chỏng lỏn. Một người phụ nữ lại có thể lớn tiếng mắng mỏ và đòi trả công bằng bữa ăn với người đàn ông mà mình chỉ mới gặp trước đây vài ngày: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt”. Rồi thị còn cong cớn với Tràng khi anh ta mời ăn trầu: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Để rồi khi anh cu Tràng nói “Muốn ăn gì thì ăn”, thì đã chẳng ngại ngần gì mà “mắt còn sáng lên”, đon đả nói “ăn thì ăn thật chứ sợ gì”, “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn chiếc bánh đúc”, khi ăn xong còn cầm lấy đũa quẹt ngang miệng. Tuy nhiên, ẩn chứa bên trong vẻ ngoài nhếch nhác, chỏng lỏn ấy lại là người đàn bà biết điều, một người phụ nữ hiền hậu, một người vợ đúng mực. Khi theo anh Tràng về nhà, trước sự bàn tán của người dân xóm ngụ cư chị ta dù không thoải mái nhưng cũng chỉ dám lầm bầm trong miệng. Về đến nhà, thị cũng chỉ dám“ngồi mớm ở mép giường”, rồi cất tiếng chào bà cụ Tứ thật nhẹ nhàng: “U đã về đấy ạ”. Nhìn thấy hình ảnh ngôi nhà lụp xụp của mẹ con anh Tràng, mặc dù cảm thấy thất vọng nhưng chị ta cũng không bỏ đi hay mắng chửi anh Tràng như trước đó mà chỉ cố nén tiếng thở dài, ánh mắt tối lại. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy đã chủ động làm quen. Đến buổi sáng đầu tiên về nhà, chị ta cũng chủ động dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, chuẩn bị mâm cơm gia đình. Thị bỗng hóa thân thành một nàng dâu hiền thảo, một cô Tấm giữa đời thực. Khi mẹ chồng bưng ra mời cô con dâu mới nồi cháo cám, thị cũng không hề có những phản ứng thô thiển như lúc trước mà chỉ lặng lẽ và miếng cháo chát nghẹn vào miệng. Rồi thị kể cho Tràng và mẹ nghe những câu chuyện về những người đi phá kho thóc, gieo vào lòng họ những niềm tin về một tương lai tươi sáng. Như vậy, ấn tượng về người vợ nhặt hoàn toàn thay đổi khi chị ta theo anh Tràng về làm vợ, đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, bản chất đáng quý bên trong cái xù xì, xấu xí bên ngoài.
Người vợ nhặt hiện lên dưới ngòi bút của nhà văn Kim Lân với những vẻ đẹp khuất lấp của một nàng dâu mới. Thị chính là đại diện cho những người phụ nữ trong nạn đói năm 1945 với những vẻ đẹp đáng trân trọng.
Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt – Mẫu 2
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là Vợ nhặt. Truyện đã khắc họa hình ảnh nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp khuất lấp đáng trân trọng.
Truyện kể về Tràng – một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình đổi khác. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới chỉ có vài món ăn đơn giản và một nồi cháo cám mà bà mẹ nói đùa đó là chè khoán. Miếng cám chát, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Cuộc trò chuyện về tiếng trống thúc thuế kết thúc và trong óc Tràng hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Nhân vật người vợ nhặt được khắc họa trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân không được ưu ái về ngoại hình, xuất thân. Thậm chí đến cái “tên” cũng không có, chỉ được nhà văn gọi là “thị”. Đặc biệt là những nét tính cách được Kim Lân khắc họa. Trước đó, Tràng chỉ hò bông đùa có một câu nhưng ai ngờ thị lại chạy ra đẩy xe bò cho anh ta thật. Sau đó mấy hôm, thị xuất hiện nhưng đã hoàn toàn thay đổi khiến Tràng không nhận ra: “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chỉ với vài nét miêu tả Kim Lân đã khắc họa lên hình ảnh thảm hại của người phụ nữ xóm ngụ cư. Nhưng không chỉ có vật, người vợ nhặt còn hiện lên với sự chao chát, chỏng lỏn khi đòi trả công bằng bữa ăn với người đàn ông mà mình từng đẩy xe bò hộ. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc thì thị cúi đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc. Đến khi ăn xong còn cầm đôi đũa quẹt ngang miệng và chép miệng khen ngon. Lúc này, ở thị không có sự khéo léo, tinh tế của người phụ nữ. Ta chỉ thấy hình ảnh một người đàn bà có phần vô duyên. Đặc biệt là khi Tràng ngỏ ý muốn người phụ nữ về làm vợ. Không đợi Tràng phải mở lời lần thứ hai thị đã gật đầu cái rụp rồi theo Tràng về nhà đồng ý làm vợ anh. Nhưng qua chi tiết này, Kim Lân lại cho thấy một vẻ đẹp khuất lấp bên trong người vợ nhặt. Đó là lòng ham sống mãnh liệt.
Đến khi theo Tràng về nhà, thị lại trở nên khéo léo, tinh tế. Thị lại biết thẹn thùng khi theo Tràng về nhà, biết ý tứ ngồi mớm ở mép giường. Biết gia cảnh nhà Tràng, thị cũng chỉ nén một tiếng thở dài chứ không sừng sộ, bỏ đi. Thị còn rụt rè, lo sợ khi gặp mẹ chồng, rồi lễ phép chào hỏi. Sáng hôm sau, thị dậy thật sớm cùng mẹ dọn dẹp nhà cửa, phát quang ruộng vườn, chuẩn bị bữa ăn gia đình. Người vợ nhặt lúc này đã trở thành một người phụ nữ hiền hậu, một người vợ đúng mực. Khi mẹ chồng bưng ra mời cô con dâu mới nồi cháo cám, thị cũng không có những lời lẽ chê trách mà chỉ lặng lẽ và miếng cháo chát nghẹn vào miệng. Rồi thị kể cho Tràng và mẹ nghe những câu chuyện về những người đi phá kho thóc, gieo vào lòng họ những niềm tin về một tương lai tươi sáng.
Qua phân tích trên, nhân vật người vợ nhặt hiện lên tuy vẻ bề ngoài xấu xí, thô kệch, nhưng ẩn sâu bên trong lại là những nét đẹp khuất lấp đáng trân trọng. Nhân vật đã thể hiện được trọn vẹn những dụng ý mà nhà văn muốn gửi gắm.
Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt – Mẫu 3
Truyện ngắn Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Với tác phẩm này, nhà văn đã khắc họa hình ảnh người vợ nhặt với những nét đẹp khuất lấp đằng sau vẻ bề ngoài xấu xí, thảm hại.
Vợ nhặt là câu chuyện xoay quanh nhân vật Tràng sống cùng người mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình đổi khác. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới chỉ có vài món ăn đơn giản và một nồi cháo cám mà bà mẹ nói đùa đó là chè khoán. Miếng cám chát, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Cuộc trò chuyện về tiếng trống thúc thuế kết thúc và trong óc Tràng hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Nổi bật lên trong tác phẩm là cô vợ nhặt. Thị xuất hiện trong tác phẩm nhưng không có tên tuổi, quê quán hay người thân. Cô chỉ được nhà văn gọi là “thị” – mang tính phiếm chỉ. Thị đại diện cho rất nhiều người phụ nữ Việt Nam trong những năm 1945 – khi nạn đói hoành hành. Kim Lân đã miêu tả người vợ nhặt với một ngoại hình xấu xí: “khuôn mặt lưỡi cày gầy xám xịt”, “áo quần rách như tổ đỉa”, “cái ngực gầy lép nhô lên”. Nhưng không chỉ dừng lại ở ngoại hình, cái ấn tượng của người đọc về thị còn ở cái hành động “lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” – một người đàn ông không hề quen biết. Rồi đến lần thứ hai gặp lại, thị lại cong cớn đòi Tràng trả công. Khi được mời ăn cũng chẳng kiêng dè mà ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc, ăn xong còn cầm lấy đũa quẹt ngang miệng.
Nhưng ẩn sau cái ngoại hình xấu xí, cái dáng vẻ cô duyên ấy của người vợ nhặt chính là vẻ đẹp của người phụ nữ đảm đang, hiền hậu đúng mực và giàu lòng nhân hậu. Vẻ đẹp ấy của người vợ nhặt được thể hiện khi trên đường thị theo Tràng về nhà. Lời nhận xét của dân làng xóm ngụ cư “trông chị ta thèn thẹn hay đáo để” cùng hành động “chân nọ bước díu vào chân kia” của nhân vật thị đã cho thấy sự e thẹn, ngượng nghịu có cái gì đó xấu hổ của thị khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Đặc biệt khi về đến nhà, sự ngại ngùng ấy còn bộc lộ qua hành động “ngồi mém ở mép giường”. Đó là một cách ngồi rất ý tứ khi lần đầu tiên bước tới nhà chồng, nó cho thấy vẻ đẹp e dè, kín đáo vốn có của người phụ nữ. Rồi thị “lẳng lặng theo Tràng vào trong nhà”, đảo mắt nhìn xung quanh ngôi nhà rồi “nén một tiếng thở dài, nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Những tưởng theo Tràng về làm vợ sẽ thoát khỏi cuộc sống đói nghèo, nhưng đến khi về nhà thị mới nhận ra cảnh ngộ của Tràng cũng không khá hơn. Tuy nhiên không vì thế mà thị bỏ đi, thị chỉ là nén tiếng thở dài. Đó chính là sự ý tứ và kín đáo của nhân vật. Đặc biệt là sự thay đổi của người vợ nhặt vào buổi sáng hôm sau. Ta không thể ngờ được người vợ nhặt trước đó khi trở thành nàng dâu mới lại đảm đang, hiền hậu. Thị đã dậy sớm, thu dọn nhà cửa, vườn tược cùng mẹ chồng. Giờ đây, ở đó, không còn một thi chao chát, chỏng lót nữa mà chỉ còn lại “một người đàn bà hiền hậu đúng mực”, khiến cho cuộc sống của Tràng đang thay đổi theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp hơn. Thị đã khiến Tràng trưởng thành hơn, biết chăm lo và mong ước về một tương lai tốt đẹp.
Như vậy, Kim Lân đã thật thành công khi khắc họa hình ảnh người vợ nhặt. Ẩn sâu bên trong vẻ bên ngoài xấu xí là một người phụ nữ luôn khao khát được sống, được hạnh phúc.