Tiểu Sử Nguyễn Du Qua Những Phát Hiện Mới
tỉnh Hà
Tĩnh (Photo: VietnamPlus)
Nguyễn Du có Truyện Kiều từ năm nào?
Nguyễn Du có quyển Kim Vân Kiều Truyện của
Thanh Tâm
Tài
Nhân không
phải lúc đi sứ năm 1813 mà có từ năm 1790 tại
Hàng Châu
. Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ năm 1789-1790 Nguyễn Nễ, anh Nguyễn Du làm Phó Sứ sang xin phong vương cho Vua Quang Trung, đã mang về tặng em. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn có nói với tôi rằng Nguyễn Du viết trước khi ra làm quan năm 1802, vì sau đó công việc quan bận rộn Nguyễn Du không có
thì giờ
để diễn ca Kim Vân Kiều truyện được. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã tiên đoán Nguyễn Du viết Truyện Kiều rất sớm, tứ năm 24 tuổi.
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn sau 10 năm
nghiên cứu
các chữ húy trong 8 văn bản cổ nhất Truyện Kiều, dò đọc hơn 30 000 câu thơ, đã đi đến
kết luận
: Các văn bản đều tránh chữ húy đời Lê-Trịnh,
chứng tỏ
, Truyện Kiều không viết vào đời Nguyễn Gia Long, mà viết sớm hơn vào thời Lê Trịnh. Tôi có dịp gặp gỡ và
quen biết
từ những năm 1980 khi Giáo sư và
phu nhân
sang Paris dạy tại Khoa Việt Học. Trường
Ngôn Ngữ
Đông Phương
. Viện
Đại Học
Paris VII. Những ngày cuối đời của Giáo sư qua địa chỉ internet: ngtaican@mtu-net-ru, và địa chỉ nhà riêng tại Moscou tôi
thông báo
với Giáo sư các
khám phá
của tôi khi
nghiên cứu
thơ chữ Hán Nguyễn Du: tôi đã
tìm ra
cuộc đời
ba năm
giang hồ
của Nguyễn Du tại
Trung Quốc
(1797-1790), trong 10 năm gió bụi (1786-1796) mối tình với Hồ Xuân Hương, khi
nghiên cứu
các địa danh,
hoàn cảnh
lịch sử
,
phong cảnh
mô tả
trong thơ và đi du lịch
Trung Quốc
theo dấu
chân cuộc
hành trình
này. Giáo sư lấy làm mừng rỡ khi nhận được quà tặng các
tác phẩm
của tôi, và Giáo sư
cho biết
Giáo sư đã bị phong thấp liệt nửa người rồi nhưng cũng ráng viết cho tôi vì
thú vị
quá. Nhất là chuyện Nguyễn Du hẹn với Nguyễn Đại Lang gặp lại tại
Trung Châu
, là
Hàng Châu
: Miếu Nhạc Phi, ở cạnh Tây Hồ, nơi đây Nguyễn Du đã ở lâu chờ đợi nên làm 5 bài thơ,
đối diện
miếu Nhạc Phi có con đê Tư (Su) băng qua một góc hồ là chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải từng
tu hành
. Có thể
nhà sư
Chí Hiên (Nguyễn Du) đã trú nơi đây, nơi đây Nguyễn Du đã nghe chuyện Từ Hải và có được Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm
Tài Nhân viết từ đời Khang Hy, được khắc in vào đời Càn Long, đang được bán và
nổi tiếng
tại
Hàng Châu
năm 1790. Sau khi gặp Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Du được
chu cấp
nên đi Yên Kinh với xe song mã và
trở về
đến Hoàng Châu Hà Bắc thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ bộ Tây Sơn trên đường đi Nhiệt Hà, nơi nghĩ mát Vua Càn Long. Đoàn Nguyễn Tuấn có hai bài thơ ghi lại cuộc gặp gỡ này: «Đến Hoàng Châu
vừa vặn
gặp người bạn
văn chương
họ Nguyễn từ Yên Kinh
trở về
bèn phóng bút làm thơ tặng». Bài thơ có câu: Giải cấu
văn nhân
sách chỉ đàm ( Gặp gỡ nhà văn
tìm thấy
đề tài sách để nói chuyện) và trên đường đi sứ Đoàn Nguyễn Tuấn có bài thơ Vô Đề có câu: Hồng nhan tự cổ đa tăng mệnh (
Má hồng
từ xưa thường bị
số mệnh
ghen ghét
). Nhà văn họ Nguyễn là ai? và đề tài sách gì
ám ảnh
Đoàn Nguyễn Tuấn phải viết một bài thơ về chuyện hồng nhan?. Người bạn
văn chương
họ Nguyễn ấy chính là Nguyễn Du.
Tìm ra
nhân vật Nguyễn Đại Lang trong Thanh Hiên Thi tập, tức Nguyễn Đăng Tiến, nguyên quyền
trấn thủ
Thái Nguyên, thay quan Tham Tụng Nguyễn Khản, Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu theo Lê Quý Kỷ sự của Nguyễn Thu, tức Cai Gia tay giặc già trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Cai Già trong Lịch Triều Tạp kỷ của Ngô Cao Lãng. Đến các bài thơ trong Thanh Hiên thi tập tả cảnh núi non, tuyết, bốn mùa,
trưởng giả
còn
ăn mặc
theo nhà Hán, không theo lịch nhà Tân ở Vân Nam, cảnh rừng liễu cao ở Liễu Châu, cảnh Cao sơn
lưu thủy
ở Quế Lâm.. Chia tay Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Du
cho biết
sẽ
đi theo
sông Giang Hán đến
Trường An
, và hẹn gặp lại ở
Trung Châu
. Các bản dịch đều chú thích
Trung Châu
là Hà Nội. và bỏ mất chữ Hán: Tôi sang sông Hán đây, thành Tôi sẽ sang sông đây. Không ai gọi
Trung Châu
là Hà Nội bao giờ,
Trung Châu
là vùng lòng đỏ trứng gà
Hoa Hạ
, các kinh đô lớn giữa
Trung Quốc
.
Bằng một
con đường
khác tôi đã
chứng minh
công trình
của Gs Nguyễn Tài Cẩn
hoàn toàn
đúng, và Giáo sư rất vui khi nhắm mắt lìa đời. Nguyễn Du có văn bản Truyện Kiều từ năm 1790 tại
Hàng Châu
.
Ngày sinh và năm sinh Nguyễn Du và
cha mẹ
Theo
gia phả
Nguyễn Du sinh ngày 23-11 năm Ất Dậu,
âm lịch
, tính ra dương lịch là ngày 3 tháng giêng 1766 mới đúng. Các
tài liệu
cũ đều
lầm lẫn
khi viết Nguyễn Du sinh năm 1765.
Thân phụ
Nguyễn Du là quan Tư Đồ Nguyễn Nghiễm, ( Chức vụ Tham Tụng tương đương
Thủ Tướng
Chính phủ ngày nay.) Mẹ Nguyễn Du bà Trần Thị Tần vợ thứ ba, trong 8 bà vợ cụ Nguyễn Nghiễm, phong tục
ngày xưa
vợ cả bà Đặng Thị Dương do
cha mẹ
cưới để làm dâu, vợ thứ hai do bà cả cưới cho chồng, làm bạn cho mình, bà Đặng Thị Thuyết em gái bà Dương, sinh Nguyễn Điều mất sớm, Nguyễn Điều được bà cả
nuôi dưỡng
. Hai bà đầu cai quản gia trang ở Tiên Điền. Các con theo cha học tập. Bà ba chính là người do quan Tư Đồ tự chọn cho mình, con ông Trần Ôn,
dòng dõi
Tiến sĩ
Trần Phi Chiêu, làng Hoa Thiều, Bắc Ninh, giữ chức Câu kế
quản lý
sổ sách
gia đình
. Bà Tần được theo cụ Nguyễn Nghiễm
thương yêu
nhất cho theo đi trấn nhậm các nơi và bằng chứng là bà có con đông nhất, 5 người con. Với vị thế là người được chồng
thương yêu
nhất và có cha là quản gia, mẹ Nguyễn Du là người có
thế lực
trong
gia đình
. Điều này
bác bỏ
quan điểm
cho rằng mẹ Nguyễn Du
thân phận
lẽ mọn
thấp kém
trong
gia đình
.
Bút hiệu của Nguyễn Du
Nguyễn Du có bút hiệu là Thanh Hiên, điều này
rõ ràng
trong Thanh Hiên thi tập.. Thanh lấy từ chữ
Thanh Liên
bút hiệu
thi hào
Lý Bạch ghép với chữ Hiên
gia đình
thường dùng
: Cụ Nguyễn Nghiễm bút hiệu Nghị Hiên, anh Nguyễn Nể bút hiệu Quế Hiên, cháu Nguyễn Thiện bút hiệu Thích Hiên..
Nguyễn Hành trong bài Đi Săn có nhắc đến
danh hiệu
Phi Tử. Phi Tử là người thời Chu Hiếu Vương thời Xuân Thu Chiến Quốc, dâng ngựa cho vua nhà Chu được phong chức Phụ Dung (nước phụ chư hầu).
Sự kiện
này
trùng hợp
với Nguyễn Du, khi vua Gia Long ra Bắc năm 1802, từ Quỳnh Hải đã dẫn
thủ hạ
, học trò và tráng đinh đến dâng ngựa và lương thực cho vua Gia Long được phong chức Tri huyện Phù Dung, trấn Sơn Nam, nơi gặp gỡ, cho nên Nguyễn Du được gọi là Phi Tử.
Từ khi
tìm ra
Lưu Hương Ký thơ Hồ Xuân Hương có chép hai bài thơ Chí Hiên tặng.
Suy diễn
từ tình cảm oán trách trong bài, tôi cho rằng đó là thơ Nguyễn Du, oán trách Hồ Xuân Hương đi lấy chồng Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, khi Nguyễn Du bị tù tại Hồng Lĩnh năm 1796. Tôi cho rằng đó là bút hiệu Nguyễn Du dùng trước khi đổi thành bút hiệu Thanh Hiên.
Cuối năm
1787 Nguyễn Du sang Vân Nam bị bệnh ba tháng xuân, sau đó Nguyễn Du
xuất gia
thành
nhà sư
Chí Hiên, để đi
giang hồ
đến
Trường An
và hẹn gặp lại Nguyễn Đại Lang tại
Trung Châu
. Thành
nhà sư
đi nhờ các thuyền buôn không mất tiền, đêm trú lại một ngôi chùa trên đường đi
tụng Kinh
Kim Cương
làm
công quả
, ăn ngủ tại các chùa trên đường đi. Chí là
danh hiệu
Chí Thiện
Thiền Sư
Chưởng môn
Thiếu Lâm Tự
thời vua Càn Long. được người đương thời kính phục, đề tài của nhiều bộ tiểu thuyết.
Nhà sư
giỏi võ vác thanh trường kiếm trên vai, được các thuyền buôn
tin tưởng
và có thể nhờ làm lễ cầu phúc cầu may buôn bán
tốt lành
. Với
phương tiện
này Nguyễn Du có thể đi Giang Bắc Giang Nam cái túi không, Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế, (đi gần 5000 km) và
Tụng Kinh
Kim Cương
nghìn lượt (1000: 365 ngày= khoảng 3 năm).
Tố Như chỉ
xuất hiện
một lần
duy nhất
trong bài Độc Tiểu Thanh Ký. Tố Như nghĩa là gì? Có điển tích nào không?. Tại sao bài thơ nằm cuối Thanh Hiên Thi tập cùng thời điểm với lúc Nguyễn Du làm
tri phủ
Thường Tín năm 1803-1804. Tại sao Hồ Xuân Hương có bài thơ Chơi Tây Hồ nhớ bạn,
ý tứ
trả lời
bài Độc Tiểu Thanh Ký, sau khi bỏ Tổng Cóc
trở về
làng Nghi Tàm.
Hiểu Tố Như là Nguyễn Du thì câu thơ Bách tri tam bách
dư niên
hậu,
Thiên hạ
hà nhân khấp Tố Như,
trở thành
vô lý
. Tại sao Nguyễn Du phải đòi hỏi ba trăm năm lẽ có người khóc mình? tại sao không ngàn năm, điều này ngược lại với
thái độ
không cần
danh lợi
ở các bài thơ Đi săn tại Hồng Lĩnh, tại sao Nguyễn Du là 38 tuổi, làm quan chưa lâu mà sánh mình với một cô gái 18 tuổi lấy lẽ và bị vợ cả ghen mà buồn và chết? Nam nhi
ngày xưa
chẳng ai sánh mình với nữ nhi? 6 câu đầu nói về nàng Tiểu Thanh, bổng nhiên câu cuối hỏi vớ vẫn ai khóc mình là lạc đề? Nguyễn Du không thể làm thơ lạc đề như thế.
Hiểu tố như: Theo tự điển Thiều Chửu: Tố là người phẩm hạnh cao quý, như là như thế, như vậy. Tố như là người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh.
Đáp ứng
được với thời điểm lúc Nguyễn Du làm
tri phủ
Thường Tín vợ mất, tìm về
Cổ Nguyệt
Đường thăm chốn xưa, thì Hồ Xuân Hương đang lấy lẽ Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà, nàng đang đau ốm
thân phận
như nàng Tiểu Thanh.
Xúc động
Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh Ký,
xót thương
nàng: Ba trăm năm lẽ nữa ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh. Hồ Xuân Hương nhận được thơ,
dứt tình
với Tổng Cóc: Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi. Dù anh có cho tôi nghìn vàng tôi cũng không
trở lại
với anh nữa như cóc bị bôi vôi ( đi mất
biệt tăm
).
Trở về
Nghi Tàm Hồ Xuân Hương viết bài Chơi Tây. Hồ nhớ bạn: Tây Hồ vườn cảnh đã như xưa; Người đồng châu ấy có bao giờ; Nhật Tân đê vỡ nhưng còn lối,
Trấn Quốc
rêu phong vẫn ngấn thơ..Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng. Kìa non phượng đất khói tuôn mờ. Hồ kia
thăm thẳm
sâu dường mấy, So dạ hoài nhân dễ chưa vừa. Tình cảm bài thơ
hoàn toàn
phù hợp
với mối tình ba năm với Nguyễn Du và
trả lời
bài Độc Tiểu Thanh Ký.
Nguyên do
sai lầm
do những người chép văn bản cho Trường Viễn Đông Bác Cổ thêm vào.
Ngày xưa
anh em chỉ gọi nhau là gia huynh, gia đệ: Nguyễn Du viết bài Ức gia huynh, nhớ anh Nguyễn Nể, và Ngô gia đệ cựu ca cơ cho người hát cũ của em Nguyễn Ức. Thơ Nguyễn Nể viết cho Nguyễn Du lại có những cái tựa kỳ dị: Hoài Thanh Hiên Tố Như đệ?. Không ai viết hai
danh hiệu
cùng một lúc?
Nguyễn Du
đại diện
binh quyền cho anh Nguyễn Khản tại Thái Nguyên
Nguyễn Khản năm 1783, khi Trịnh Tông
lên ngôi
chúa, rời nhà giam
trở thành
Thượng Thư Bộ Lại hành Tham Tụng (Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ kiêm
Thủ Tướng
) kiêm
trấn thủ
Thái Nguyên, Hưng Hóa.
Nguyễn Du vừa đậu Tam Trường trường thi Sơn Nam, Nguyễn Khản đã phong em làm Chánh Thủ Hiệu Quân Hùng Hậu Hiệu,
chỉ huy
đội quân hùng hậu nhất Thái Nguyên, cùng Nguyễn Quýnh chức Trấn Tả Đội, đội quân quan trọng khác. Quyền
Trấn Thủ
Thái Nguyên là Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu, tức Cai Già, Cai Gia, Nguyễn Đại Lang. Vốn là tay «giặc già»
Trung Quốc
, gốc người Việt Đông sang tị nạn tại
Việt Nam
, được Nguyễn Khản dùng dạy võ cho các em. Thái Nguyên là nơi có nhiều người
Trung Quốc
sang khai thác mỏ bạc, dân
giang hồ
tứ chiến, việc gửi Cai Gia lên trấn Thái Nguyên là một việc
hợp lý
. Nguyễn Đại Lang có
kết nghĩa
sinh tử
với Nguyễn Du, vì lớn tuổi hơn cả Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi) nên Nguyễn Du gọi là
anh Cả
: Nguyễn Đại Lang.
Sinh tử
giao tình tại,
Tồn vong
cùng khổ
khi. Hai người từng bị tù,
cùng khổ
khi bị tuớng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm bắt và cùng được tha.(bài Biệt Nguyễn Đại Lang). Nguyễn Du đã lấy quê Nguyễn Đại Lang thay cho quê Hấp Huyện, An Huy của Từ Hải: Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
Điều này
bác bỏ
gia phả
viết: Nguyễn Du được tập ấm chức quan nhỏ cha nuôi họ Hà. Và Nguyễn Du có vợ trong
thời gian
này ở Quỳnh Hải. Anh Nguyễn Khản người nuôi nấng Nguyễn Du bị tù tội suýt
bị giết
năm 1780 vụ án Trịnh Tông, ra khỏi tù phải đương đầu với kiêu binh, thì còn
lòng dạ
nào lo cưới vợ cho Nguyễn Du? Khi anh Nguyễn Khản bị tù, Nguyễn Du
trở về
làng Tiên Điền học với chú Nguyễn Trọng.
Người
đi theo
vua Gia Long ra Bắc không phải là Nguyễn Du mà là Nguyễn Nể
Nguyễn Nể đang làm Trung Thư Lĩnh, chức vụ tương đương với Trần Văn Kỷ, kiêm
chỉ huy
xây Phượng Hoàng Trung Đô, cùng
Trấn Thủ
Nguyễn Văn Thận và Trần Quang Diệu, thì được lệnh vua Cảnh Thịnh đem cụ Nguyễn Thiếp về triều. Đến nơi thì Vua Gia Long chiếm Phú Xuân, không
theo kịp
Cảnh Thịnh chạy ra Bắc. Cả hai đều được Gia Long triệu đến. Gia Long tha chết cả hai, cho Nguyễn Thiếp về quê quán và dùng Nguyễn Nể để hỏi các
nghi lễ
đi sứ xin phong vương sang nhà Thanh, nên đem Nguyễn Nể theo ra Bắc.
Lúc này Nguyễn Du không ở Hồng Lĩnh mà ở Quỳnh Hải, các bài thơ viết tại Quỳnh Hải, Nguyễn Du đều nói mình ba chục tuổi. Khi vua Gia Long ra Bắc; từ Quỳnh Hải, Nguyễn Du đem học trò,
thủ hạ
dâng ngựa, lương thực đi đến trấn Sơn Nam, huyện Phù Dung thì gặp vua Gia Long vua phong ngay làm tri huyện nơi này.
Chi tiết
này
bác bỏ
gia phả
viết: Nguyễn Du từ Hà Tĩnh dẫn
thủ hạ
dân sớ, và lương thực cho vua Gia Long, và được đem ra Bắc phong cho làm Tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam.
Một phần Bắc Hành tạp lục và Thanh Hiên thi tập được viết ở
Trung Quốc
trong thời đi
giang hồ
.
Trong Thanh Hiên thi tập nhiều bài thơ Nguyễn Du đã viết tại Vân Nam, Liễu Châu, Quế Lâm.: Sơn cư mạn hứng,
U cư
, Mạn hứng,, Xuân Dạ, Lưu biệt Nguyễn Đại Lang, Biệt Nguyễn Đại Lang, Tống Nguyẽn Sĩ Hữu Nam qui.
Trong Bắc Hành Tạp lục nhiều bài, gần phân nửa, đã được viết năm 1788-1790, 23 năm trước khi đi sứ.
– Các bài thơ làm ở
Trường An
,
Hàng Châu
không nằm trên đường đi sứ năm 1813: Bùi Tấn Công mộ, Dương Phi cô lý. Phân Kinh Thạch Đài. 5 bài thơ viết ở Miếu Nhạc Phi.
– Các bài thơ Nguyễn Du đi
một mình
,
cô đơn
trên chiếc thuyền nhỏ như chiếc lá. Khi đi sứ Nguyễn Du đi với đoàn 27 người, với đồ
cống phẩm
hàng trăm rương hòm: vàng, bạc, ngà voi, sừng tê, quế, yến, lụa, gấm.. Một vị tướng
Trung Quốc
chỉ huy
đưa đón, đi từ Mạc Phủ Nam Quan đến Bắc Kinh và
trở về
. Tại các địa phương hàng trăm, có nơi hàng ngàn lính
hộ tống
. Đường xa
Trung Quốc
thường hay
có giặc cướp như kiểu Hoàng Sào, Lương Sơn Bạc, các vùng thường
mất mùa
đói khó,
loạn lạc
nổi lên. Quan lại địa phương không thể để cống phầm rơi vào tay cướp, có thể bị triều đình
trừng phạt
.. Thuyền đi cả đoàn
hộ tống
, các trạm đèn đuốc sáng rực cả trăng sao. Các địa phương cổng chào,
bàn hương án
, trống đánh, đốt pháo, bắn súng, ca nhi múa hát, tiệc quan
tiếp đón
. Nguyễn Du không thể tả cảnh mình «một mình, một ngựa»
cô đơn
đi sứ được?: Các bài Chu hành tức sự, Sơn Đường dạ bạc, Thương Ngô mộ vũ, Thương Ngô trúc chi ca, Vọng
Tương Sơn Tự
, Bất tiến hành, Tương Âm dạ… có những
chi tiết
cho thấy Nguyễn Du viết lúc đi
giang hồ
.
– Các bài thơ làm thời Tây Sơn, có nói đến gió Tây, nói đến tình cảm chống Tây Sơn: Phản
Chiêu hồn
, Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, Đăng Nhạc Dương lâu., Nhiếp Khẩu
đạo Trung
,Tín Dương tức sự,
Hoàng Hà
trở lao.Trở binh hành. Biện giả. Sơ thu
cảm hứng
. Các bài này viết lúc đi
giang hồ
thời Tây Sơn. Tây phong biến dị hương, Gió Tây làm
rung động
đất khách. Trận đánh Tây Sơn Tôn Sĩ Nghị
đại bại
làm
rung động
đât khách
Trung Quốc
(Tín Dương tức sự).
– Các bài thơ
liên hệ
chính sự chống nhà Thanh: Bài Quế Lâm Cù các bộ. Quan Chánh sứ Nguyễn Du không thể thăm lăng mộ giặc tàn nhà Minh,
chống lại
nhà Thanh. Bài thơ này viết lúc đi
giang hồ
.
Đoạn đường từ Bắc Quế Lâm qua Toàn Châu Trường Sa đến Hán Khẩu theo sông Tương qua
Động Đình
Hồ. Lần đi
giang hồ
và đi sứ Nguyễn Du đều đi qua. Khi đi sứ Nguyễn Du có nhắc lại cảnh cũ.: Tây Hà Dịch, Hoàng Hạc lâu, Hán Dương vãn điểu.. Độ
Hoài cảm
Văn thừa tướng..
Nguyễn Du không có tâm sự hoài Lê và
hoàn toàn
theo minh chúa là vua Gia Long
Trong hành động Nguyễn Du năm 1796 muốn trốn vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh bị
Trấn Thủ
Tây Sơn Nguyễn Văn Thận bắt giam ba tháng. Trong bài thơ Ức Gia Huynh, năm 1795 Nguyễn Nể xung phong trấn giữ đất thang mộc Quy Nhơn của Tây Sơn. Phan Huy Ích
ca tụng
việc này, thì Nguyễn Du cho rằng: chức quan
ràng buộc
thân nơi lam chướng, lạnh lẽo, từ biệt từ nay không biết kiếp nào
gặp nhau
, trong mộng tìm nhau cũng khó khăn. Năm 1802 khi vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du đem lương thực
thủ hạ
ra
tiếp đón
.
Từ giữa năm 1790 đến 1794, Nguyễn Du sống tại Thăng Long, nương tựa nơi anh Nguyễn Nể, nhưng sống tại Gác Tía nhà câu cá anh Nguyễn Khản, cạnh đền Khán Xuân và
Cổ Nguyệt
Đường, yêu cô hàng xóm họ Hồ. Ba năm này Nguyễn Du viết
Đoạn Trường
Tân Thanh. Phạm Đình Hổ trong thơ chữ Hán đã trêu cô gái mới lớn Hồ Phi Mai, yêu anh chàng viết
Đoạn Trường
nên đứng trước gương cũng uốn éo như đứt ruột.
Nguyễn Nể được vua Quang Trung nể vì
học thức
, thường gióng ngựa quý đến thăm. Các quan, tướng Tây Sơn đến dinh
Kim Âu
ở Bích Câu, nghe cô Cầm gảy đàn vung tiền thưởng như nước. Nhưng Nguyễn Du chỉ đứng trong bóng tối, không hề muốn dựa
thế lực
của anh để ra làm quan Tây Sơn. Sau khi vua Quang Trung mất năm 1792, Nguyễn Nể được triệu về Phú Xuân làm thầy dạy vua Cảnh Thịnh, sách Tiểu Học do Sùng Chính Viện cụ Nguyễn Thiếp vừa
biên soạn
. Nguyễn Nể được thăng chức Trung Thư Lĩnh chức vụ quân sư
ngang hàng
với Trần Văn Kỷ, nhưng phải
đối phó
với Bùi Đắc Tuyên đang chuẩn bị những bước tiếm quyền Tây Sơn. Chức vụ
Trấn Thủ
Quảng Nam, thời các chúa Nguyễn dành cho các Thế tử sắp
kế vị
được trao cho con là Bùi Đắc Trụ. Trong khi Trần Văn Kỷ bị đày làm lính thú, Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhậm về
ở ẩn
, đi
tu đạo
Lão,
đạo Phật
. Nguyễn Nể phải xung phong đi trấn đóng Quy Nhơn 1795, xin đi sứ truyền ngôi vua Càn Long năm 1795-1796 và
cuối cùng
xin đi
xây dựng
Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An, sau khi tướng Vũ Văn Dũng giết
cha con
Bùi Đắc Tuyên và Tướng Ngô Văn Sở.
Năm 1796, Nguyễn Du muốn trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh. Nguyễn Du không chọn lựa giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh, vì Nguyễn Huệ đã mất.. Mà chọn lựa giữa Nguyễn Ánh và Bùi Đắc Tuyên, Vũ Văn Dũng.
Năm 1802, Nguyễn Du ra
tiếp đón
dâng lương thực và ngựa cho vua Gia Long. Anh Nguyễn Nể đã
quy hàng
dưới trướng vua Gia Long. Vua Gia Long không dùng Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Nể, chỉ
tham khảo
ý kiến
mà lại dùng con Phan Huy Ích là Phan Huy Chú, Phan Huy Thực, em Ngô Thời Nhậm là Ngô Thời Vị và Nguyễn Du, Nguyễn Ức em Nguyễn Nể.
Đó là tóm lượt những phát hiện mới của tôi về Nguyễn Du. Trong nước có
thể tham
khảo site: Tạp chí
Văn Hóa
Nghệ An:
Phạm Trọng
Chánh các bài viết:
Bàn về bút hiệu Nguyễn Du
Nguyễn Du từ Thái Nguyên sang Vân Nam năm 1787.
Chia tay Nguyễn Đại Lang tại Liễu Châu.
Nguyễn Du
nhà sư
Chí Hiên: Giang Bắc Giang Nam cái túi không.
Nguyễn Du gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn tại Hoàng Châu 1790
Nguyễn Du: Người đi săn núi Hồng (1794-1796)
Đi theo
hành trình
Nguyễn Du: Bắc Hành Tạp lục.
Nguyễn Nể: Bậc kỳ tài. Vua Quang Trung nể vì
học thức
thường gióng ngựa quý tới thăm.
Sách viết:
Phạm Trọng
Chánh Nguyễn Du Mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Khuê Văn. Paris 2011.
PHẠM TRỌNG CHÁNH
*
Tiến sĩ
Khoa Học
Giáo Dục
Viện
Đại Học
Paris V.
Bản gốc:
https://vietbao.com/a247531/tieu-su-nguyen-du-qua-nhung-phat-hien-moi
Nguyễn Du có quyển Kim Vân Kiều Truyện củaTàiphải lúc đi sứ năm 1813 mà có từ năm 1790 tại. Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ năm 1789-1790 Nguyễn Nễ, anh Nguyễn Du làm Phó Sứ sang xin phong vương cho Vua Quang Trung, đã mang về tặng em. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn có nói với tôi rằng Nguyễn Du viết trước khi ra làm quan năm 1802, vì sau đó công việc quan bận rộn Nguyễn Du không cóđể diễn ca Kim Vân Kiều truyện được. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã tiên đoán Nguyễn Du viết Truyện Kiều rất sớm, tứ năm 24 tuổi.Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn sau 10 nămcác chữ húy trong 8 văn bản cổ nhất Truyện Kiều, dò đọc hơn 30 000 câu thơ, đã đi đến: Các văn bản đều tránh chữ húy đời Lê-Trịnh,, Truyện Kiều không viết vào đời Nguyễn Gia Long, mà viết sớm hơn vào thời Lê Trịnh. Tôi có dịp gặp gỡ vàtừ những năm 1980 khi Giáo sư vàsang Paris dạy tại Khoa Việt Học. Trường. ViệnParis VII. Những ngày cuối đời của Giáo sư qua địa chỉ internet: ngtaican@mtu-net-ru, và địa chỉ nhà riêng tại Moscou tôivới Giáo sư cáccủa tôi khithơ chữ Hán Nguyễn Du: tôi đãba nămcủa Nguyễn Du tại(1797-1790), trong 10 năm gió bụi (1786-1796) mối tình với Hồ Xuân Hương, khicác địa danh,trong thơ và đi du lịchchân cuộcnày. Giáo sư lấy làm mừng rỡ khi nhận được quà tặng cáccủa tôi, và Giáo sưGiáo sư đã bị phong thấp liệt nửa người rồi nhưng cũng ráng viết cho tôi vìquá. Nhất là chuyện Nguyễn Du hẹn với Nguyễn Đại Lang gặp lại tại, là: Miếu Nhạc Phi, ở cạnh Tây Hồ, nơi đây Nguyễn Du đã ở lâu chờ đợi nên làm 5 bài thơ,miếu Nhạc Phi có con đê Tư (Su) băng qua một góc hồ là chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải từng. Có thểChí Hiên (Nguyễn Du) đã trú nơi đây, nơi đây Nguyễn Du đã nghe chuyện Từ Hải và có được Kim Vân Kiều truyện củaTài Nhân viết từ đời Khang Hy, được khắc in vào đời Càn Long, đang được bán vàtạinăm 1790. Sau khi gặp Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Du đượcnên đi Yên Kinh với xe song mã vàđến Hoàng Châu Hà Bắc thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ bộ Tây Sơn trên đường đi Nhiệt Hà, nơi nghĩ mát Vua Càn Long. Đoàn Nguyễn Tuấn có hai bài thơ ghi lại cuộc gặp gỡ này: «Đến Hoàng Châugặp người bạnhọ Nguyễn từ Yên Kinhbèn phóng bút làm thơ tặng». Bài thơ có câu: Giải cấusách chỉ đàm ( Gặp gỡ nhà vănđề tài sách để nói chuyện) và trên đường đi sứ Đoàn Nguyễn Tuấn có bài thơ Vô Đề có câu: Hồng nhan tự cổ đa tăng mệnh (từ xưa thường bị). Nhà văn họ Nguyễn là ai? và đề tài sách gìĐoàn Nguyễn Tuấn phải viết một bài thơ về chuyện hồng nhan?. Người bạnhọ Nguyễn ấy chính là Nguyễn Du.nhân vật Nguyễn Đại Lang trong Thanh Hiên Thi tập, tức Nguyễn Đăng Tiến, nguyên quyềnThái Nguyên, thay quan Tham Tụng Nguyễn Khản, Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu theo Lê Quý Kỷ sự của Nguyễn Thu, tức Cai Gia tay giặc già trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Cai Già trong Lịch Triều Tạp kỷ của Ngô Cao Lãng. Đến các bài thơ trong Thanh Hiên thi tập tả cảnh núi non, tuyết, bốn mùa,còntheo nhà Hán, không theo lịch nhà Tân ở Vân Nam, cảnh rừng liễu cao ở Liễu Châu, cảnh Cao sơnở Quế Lâm.. Chia tay Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Dusẽsông Giang Hán đến, và hẹn gặp lại ở. Các bản dịch đều chú thíchlà Hà Nội. và bỏ mất chữ Hán: Tôi sang sông Hán đây, thành Tôi sẽ sang sông đây. Không ai gọilà Hà Nội bao giờ,là vùng lòng đỏ trứng gà, các kinh đô lớn giữaBằng mộtkhác tôi đãcủa Gs Nguyễn Tài Cẩnđúng, và Giáo sư rất vui khi nhắm mắt lìa đời. Nguyễn Du có văn bản Truyện Kiều từ năm 1790 tạiTheoNguyễn Du sinh ngày 23-11 năm Ất Dậu,, tính ra dương lịch là ngày 3 tháng giêng 1766 mới đúng. Cáccũ đềukhi viết Nguyễn Du sinh năm 1765.Nguyễn Du là quan Tư Đồ Nguyễn Nghiễm, ( Chức vụ Tham Tụng tương đươngChính phủ ngày nay.) Mẹ Nguyễn Du bà Trần Thị Tần vợ thứ ba, trong 8 bà vợ cụ Nguyễn Nghiễm, phong tụcvợ cả bà Đặng Thị Dương docưới để làm dâu, vợ thứ hai do bà cả cưới cho chồng, làm bạn cho mình, bà Đặng Thị Thuyết em gái bà Dương, sinh Nguyễn Điều mất sớm, Nguyễn Điều được bà cả. Hai bà đầu cai quản gia trang ở Tiên Điền. Các con theo cha học tập. Bà ba chính là người do quan Tư Đồ tự chọn cho mình, con ông Trần Ôn,Trần Phi Chiêu, làng Hoa Thiều, Bắc Ninh, giữ chức Câu kếsổ sách. Bà Tần được theo cụ Nguyễn Nghiễmnhất cho theo đi trấn nhậm các nơi và bằng chứng là bà có con đông nhất, 5 người con. Với vị thế là người được chồngnhất và có cha là quản gia, mẹ Nguyễn Du là người cótrong. Điều nàycho rằng mẹ Nguyễn Dulẽ mọntrongNguyễn Du có bút hiệu là Thanh Hiên, điều nàytrong Thanh Hiên thi tập.. Thanh lấy từ chữbút hiệuLý Bạch ghép với chữ Hiên: Cụ Nguyễn Nghiễm bút hiệu Nghị Hiên, anh Nguyễn Nể bút hiệu Quế Hiên, cháu Nguyễn Thiện bút hiệu Thích Hiên..Nguyễn Hành trong bài Đi Săn có nhắc đếnPhi Tử. Phi Tử là người thời Chu Hiếu Vương thời Xuân Thu Chiến Quốc, dâng ngựa cho vua nhà Chu được phong chức Phụ Dung (nước phụ chư hầu).nàyvới Nguyễn Du, khi vua Gia Long ra Bắc năm 1802, từ Quỳnh Hải đã dẫn, học trò và tráng đinh đến dâng ngựa và lương thực cho vua Gia Long được phong chức Tri huyện Phù Dung, trấn Sơn Nam, nơi gặp gỡ, cho nên Nguyễn Du được gọi là Phi Tử.Từ khiLưu Hương Ký thơ Hồ Xuân Hương có chép hai bài thơ Chí Hiên tặng.từ tình cảm oán trách trong bài, tôi cho rằng đó là thơ Nguyễn Du, oán trách Hồ Xuân Hương đi lấy chồng Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, khi Nguyễn Du bị tù tại Hồng Lĩnh năm 1796. Tôi cho rằng đó là bút hiệu Nguyễn Du dùng trước khi đổi thành bút hiệu Thanh Hiên.1787 Nguyễn Du sang Vân Nam bị bệnh ba tháng xuân, sau đó Nguyễn DuthànhChí Hiên, để điđếnvà hẹn gặp lại Nguyễn Đại Lang tại. Thànhđi nhờ các thuyền buôn không mất tiền, đêm trú lại một ngôi chùa trên đường đilàm, ăn ngủ tại các chùa trên đường đi. Chí làChí ThiệnChưởng mônthời vua Càn Long. được người đương thời kính phục, đề tài của nhiều bộ tiểu thuyết.giỏi võ vác thanh trường kiếm trên vai, được các thuyền buônvà có thể nhờ làm lễ cầu phúc cầu may buôn bán. Vớinày Nguyễn Du có thể đi Giang Bắc Giang Nam cái túi không, Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế, (đi gần 5000 km) vànghìn lượt (1000: 365 ngày= khoảng 3 năm).Tố Như chỉtrong bài Độc Tiểu Thanh Ký. Tố Như nghĩa là gì? Có điển tích nào không?. Tại sao bài thơ nằm cuối Thanh Hiên Thi tập cùng thời điểm với lúc Nguyễn Du làmThường Tín năm 1803-1804. Tại sao Hồ Xuân Hương có bài thơ Chơi Tây Hồ nhớ bạn,bài Độc Tiểu Thanh Ký, sau khi bỏ Tổng Cóclàng Nghi Tàm.Hiểu Tố Như là Nguyễn Du thì câu thơ Bách tri tam báchhậu,hà nhân khấp Tố Như,. Tại sao Nguyễn Du phải đòi hỏi ba trăm năm lẽ có người khóc mình? tại sao không ngàn năm, điều này ngược lại vớikhông cầnở các bài thơ Đi săn tại Hồng Lĩnh, tại sao Nguyễn Du là 38 tuổi, làm quan chưa lâu mà sánh mình với một cô gái 18 tuổi lấy lẽ và bị vợ cả ghen mà buồn và chết? Nam nhichẳng ai sánh mình với nữ nhi? 6 câu đầu nói về nàng Tiểu Thanh, bổng nhiên câu cuối hỏi vớ vẫn ai khóc mình là lạc đề? Nguyễn Du không thể làm thơ lạc đề như thế.Hiểu tố như: Theo tự điển Thiều Chửu: Tố là người phẩm hạnh cao quý, như là như thế, như vậy. Tố như là người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh.được với thời điểm lúc Nguyễn Du làmThường Tín vợ mất, tìm vềĐường thăm chốn xưa, thì Hồ Xuân Hương đang lấy lẽ Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà, nàng đang đau ốmnhư nàng Tiểu Thanh.Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh Ký,nàng: Ba trăm năm lẽ nữa ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh. Hồ Xuân Hương nhận được thơ,với Tổng Cóc: Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi. Dù anh có cho tôi nghìn vàng tôi cũng khôngvới anh nữa như cóc bị bôi vôi ( đi mất).Nghi Tàm Hồ Xuân Hương viết bài Chơi Tây. Hồ nhớ bạn: Tây Hồ vườn cảnh đã như xưa; Người đồng châu ấy có bao giờ; Nhật Tân đê vỡ nhưng còn lối,rêu phong vẫn ngấn thơ..Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng. Kìa non phượng đất khói tuôn mờ. Hồ kiasâu dường mấy, So dạ hoài nhân dễ chưa vừa. Tình cảm bài thơvới mối tình ba năm với Nguyễn Du vàbài Độc Tiểu Thanh Ký.do những người chép văn bản cho Trường Viễn Đông Bác Cổ thêm vào.anh em chỉ gọi nhau là gia huynh, gia đệ: Nguyễn Du viết bài Ức gia huynh, nhớ anh Nguyễn Nể, và Ngô gia đệ cựu ca cơ cho người hát cũ của em Nguyễn Ức. Thơ Nguyễn Nể viết cho Nguyễn Du lại có những cái tựa kỳ dị: Hoài Thanh Hiên Tố Như đệ?. Không ai viết haicùng một lúc?Nguyễn Khản năm 1783, khi Trịnh Tôngchúa, rời nhà giamThượng Thư Bộ Lại hành Tham Tụng (Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ kiêm) kiêmThái Nguyên, Hưng Hóa.Nguyễn Du vừa đậu Tam Trường trường thi Sơn Nam, Nguyễn Khản đã phong em làm Chánh Thủ Hiệu Quân Hùng Hậu Hiệu,đội quân hùng hậu nhất Thái Nguyên, cùng Nguyễn Quýnh chức Trấn Tả Đội, đội quân quan trọng khác. QuyềnThái Nguyên là Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu, tức Cai Già, Cai Gia, Nguyễn Đại Lang. Vốn là tay «giặc già», gốc người Việt Đông sang tị nạn tại, được Nguyễn Khản dùng dạy võ cho các em. Thái Nguyên là nơi có nhiều ngườisang khai thác mỏ bạc, dântứ chiến, việc gửi Cai Gia lên trấn Thái Nguyên là một việc. Nguyễn Đại Lang cóvới Nguyễn Du, vì lớn tuổi hơn cả Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi) nên Nguyễn Du gọi là: Nguyễn Đại Lang.giao tình tại,khi. Hai người từng bị tù,khi bị tuớng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm bắt và cùng được tha.(bài Biệt Nguyễn Đại Lang). Nguyễn Du đã lấy quê Nguyễn Đại Lang thay cho quê Hấp Huyện, An Huy của Từ Hải: Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.Điều nàyviết: Nguyễn Du được tập ấm chức quan nhỏ cha nuôi họ Hà. Và Nguyễn Du có vợ trongnày ở Quỳnh Hải. Anh Nguyễn Khản người nuôi nấng Nguyễn Du bị tù tội suýtnăm 1780 vụ án Trịnh Tông, ra khỏi tù phải đương đầu với kiêu binh, thì cònnào lo cưới vợ cho Nguyễn Du? Khi anh Nguyễn Khản bị tù, Nguyễn Dulàng Tiên Điền học với chú Nguyễn Trọng.Nguyễn Nể đang làm Trung Thư Lĩnh, chức vụ tương đương với Trần Văn Kỷ, kiêmxây Phượng Hoàng Trung Đô, cùngNguyễn Văn Thận và Trần Quang Diệu, thì được lệnh vua Cảnh Thịnh đem cụ Nguyễn Thiếp về triều. Đến nơi thì Vua Gia Long chiếm Phú Xuân, khôngCảnh Thịnh chạy ra Bắc. Cả hai đều được Gia Long triệu đến. Gia Long tha chết cả hai, cho Nguyễn Thiếp về quê quán và dùng Nguyễn Nể để hỏi cácđi sứ xin phong vương sang nhà Thanh, nên đem Nguyễn Nể theo ra Bắc.Lúc này Nguyễn Du không ở Hồng Lĩnh mà ở Quỳnh Hải, các bài thơ viết tại Quỳnh Hải, Nguyễn Du đều nói mình ba chục tuổi. Khi vua Gia Long ra Bắc; từ Quỳnh Hải, Nguyễn Du đem học trò,dâng ngựa, lương thực đi đến trấn Sơn Nam, huyện Phù Dung thì gặp vua Gia Long vua phong ngay làm tri huyện nơi này.nàyviết: Nguyễn Du từ Hà Tĩnh dẫndân sớ, và lương thực cho vua Gia Long, và được đem ra Bắc phong cho làm Tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam.Một phần Bắc Hành tạp lục và Thanh Hiên thi tập được viết ởtrong thời điTrong Thanh Hiên thi tập nhiều bài thơ Nguyễn Du đã viết tại Vân Nam, Liễu Châu, Quế Lâm.: Sơn cư mạn hứng,, Mạn hứng,, Xuân Dạ, Lưu biệt Nguyễn Đại Lang, Biệt Nguyễn Đại Lang, Tống Nguyẽn Sĩ Hữu Nam qui.Trong Bắc Hành Tạp lục nhiều bài, gần phân nửa, đã được viết năm 1788-1790, 23 năm trước khi đi sứ.- Các bài thơ làm ởkhông nằm trên đường đi sứ năm 1813: Bùi Tấn Công mộ, Dương Phi cô lý. Phân Kinh Thạch Đài. 5 bài thơ viết ở Miếu Nhạc Phi.- Các bài thơ Nguyễn Du đitrên chiếc thuyền nhỏ như chiếc lá. Khi đi sứ Nguyễn Du đi với đoàn 27 người, với đồhàng trăm rương hòm: vàng, bạc, ngà voi, sừng tê, quế, yến, lụa, gấm.. Một vị tướngđưa đón, đi từ Mạc Phủ Nam Quan đến Bắc Kinh và. Tại các địa phương hàng trăm, có nơi hàng ngàn lính. Đường xacó giặc cướp như kiểu Hoàng Sào, Lương Sơn Bạc, các vùng thườngđói khó,nổi lên. Quan lại địa phương không thể để cống phầm rơi vào tay cướp, có thể bị triều đình.. Thuyền đi cả đoàn, các trạm đèn đuốc sáng rực cả trăng sao. Các địa phương cổng chào,, trống đánh, đốt pháo, bắn súng, ca nhi múa hát, tiệc quan. Nguyễn Du không thể tả cảnh mình «một mình, một ngựa»đi sứ được?: Các bài Chu hành tức sự, Sơn Đường dạ bạc, Thương Ngô mộ vũ, Thương Ngô trúc chi ca, Vọng, Bất tiến hành, Tương Âm dạ… có nhữngcho thấy Nguyễn Du viết lúc đi- Các bài thơ làm thời Tây Sơn, có nói đến gió Tây, nói đến tình cảm chống Tây Sơn: Phản, Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, Đăng Nhạc Dương lâu., Nhiếp Khẩu,Tín Dương tức sự,trở lao.Trở binh hành. Biện giả. Sơ thu. Các bài này viết lúc đithời Tây Sơn. Tây phong biến dị hương, Gió Tây làmđất khách. Trận đánh Tây Sơn Tôn Sĩ Nghịlàmđât khách(Tín Dương tức sự).- Các bài thơchính sự chống nhà Thanh: Bài Quế Lâm Cù các bộ. Quan Chánh sứ Nguyễn Du không thể thăm lăng mộ giặc tàn nhà Minh,nhà Thanh. Bài thơ này viết lúc điĐoạn đường từ Bắc Quế Lâm qua Toàn Châu Trường Sa đến Hán Khẩu theo sông Tương quaHồ. Lần đivà đi sứ Nguyễn Du đều đi qua. Khi đi sứ Nguyễn Du có nhắc lại cảnh cũ.: Tây Hà Dịch, Hoàng Hạc lâu, Hán Dương vãn điểu.. ĐộVăn thừa tướng..Nguyễn Du không có tâm sự hoài Lê vàtheo minh chúa là vua Gia LongTrong hành động Nguyễn Du năm 1796 muốn trốn vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh bịTây Sơn Nguyễn Văn Thận bắt giam ba tháng. Trong bài thơ Ức Gia Huynh, năm 1795 Nguyễn Nể xung phong trấn giữ đất thang mộc Quy Nhơn của Tây Sơn. Phan Huy Íchviệc này, thì Nguyễn Du cho rằng: chức quanthân nơi lam chướng, lạnh lẽo, từ biệt từ nay không biết kiếp nào, trong mộng tìm nhau cũng khó khăn. Năm 1802 khi vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du đem lương thựcraTừ giữa năm 1790 đến 1794, Nguyễn Du sống tại Thăng Long, nương tựa nơi anh Nguyễn Nể, nhưng sống tại Gác Tía nhà câu cá anh Nguyễn Khản, cạnh đền Khán Xuân vàĐường, yêu cô hàng xóm họ Hồ. Ba năm này Nguyễn Du viếtTân Thanh. Phạm Đình Hổ trong thơ chữ Hán đã trêu cô gái mới lớn Hồ Phi Mai, yêu anh chàng viếtnên đứng trước gương cũng uốn éo như đứt ruột.Nguyễn Nể được vua Quang Trung nể vì, thường gióng ngựa quý đến thăm. Các quan, tướng Tây Sơn đến dinhở Bích Câu, nghe cô Cầm gảy đàn vung tiền thưởng như nước. Nhưng Nguyễn Du chỉ đứng trong bóng tối, không hề muốn dựacủa anh để ra làm quan Tây Sơn. Sau khi vua Quang Trung mất năm 1792, Nguyễn Nể được triệu về Phú Xuân làm thầy dạy vua Cảnh Thịnh, sách Tiểu Học do Sùng Chính Viện cụ Nguyễn Thiếp vừa. Nguyễn Nể được thăng chức Trung Thư Lĩnh chức vụ quân sưvới Trần Văn Kỷ, nhưng phảivới Bùi Đắc Tuyên đang chuẩn bị những bước tiếm quyền Tây Sơn. Chức vụQuảng Nam, thời các chúa Nguyễn dành cho các Thế tử sắpđược trao cho con là Bùi Đắc Trụ. Trong khi Trần Văn Kỷ bị đày làm lính thú, Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhậm về, điLão,. Nguyễn Nể phải xung phong đi trấn đóng Quy Nhơn 1795, xin đi sứ truyền ngôi vua Càn Long năm 1795-1796 vàxin điPhượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An, sau khi tướng Vũ Văn Dũng giếtBùi Đắc Tuyên và Tướng Ngô Văn Sở.Năm 1796, Nguyễn Du muốn trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh. Nguyễn Du không chọn lựa giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh, vì Nguyễn Huệ đã mất.. Mà chọn lựa giữa Nguyễn Ánh và Bùi Đắc Tuyên, Vũ Văn Dũng.Năm 1802, Nguyễn Du radâng lương thực và ngựa cho vua Gia Long. Anh Nguyễn Nể đãdưới trướng vua Gia Long. Vua Gia Long không dùng Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Nể, chỉmà lại dùng con Phan Huy Ích là Phan Huy Chú, Phan Huy Thực, em Ngô Thời Nhậm là Ngô Thời Vị và Nguyễn Du, Nguyễn Ức em Nguyễn Nể.Đó là tóm lượt những phát hiện mới của tôi về Nguyễn Du. Trong nước cókhảo site: Tạp chíNghệ An:Chánh các bài viết:Bàn về bút hiệu Nguyễn DuNguyễn Du từ Thái Nguyên sang Vân Nam năm 1787.Chia tay Nguyễn Đại Lang tại Liễu Châu.Nguyễn DuChí Hiên: Giang Bắc Giang Nam cái túi không.Nguyễn Du gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn tại Hoàng Châu 1790Nguyễn Du: Người đi săn núi Hồng (1794-1796)Nguyễn Du: Bắc Hành Tạp lục.Nguyễn Nể: Bậc kỳ tài. Vua Quang Trung nể vìthường gióng ngựa quý tới thăm.Chánh Nguyễn Du Mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Khuê Văn. Paris 2011.Khoa HọcViệnParis V.Bản gốc: