THÁNH ĐĂNG LỤC – VUA TRẦN MINH TÔNG
(1300 – 1357)
(Được ý chỉ với Tôn giả Huyền Quang dòng Trúc Lâm)
Minh Tông là vua thứ sáu nhà Trần, con của Anh Tông. Lên ngôi ngày 18 tháng 03 năm Giáp Dần (1314), đổi niên hiệu Đại Khánh.
Lúc vua Anh Tông thỉnh Tôn giả Phổ Tuệ vào điện Thiên An trong hội Nhân Vương trao giới Bồ tát tại gia, Minh Tông đích thân thọ giới và vâng làm theo. Từ đó, vua thường tham hỏi về yếu chỉ thiền.
Năm Đại Khánh thứ chín (1323), vua ra chiếu thỉnh Tôn giả Phổ Tuệ soạn quyển “Tham Thiền Chỉ Yếu”, lời như sau: “Đệ tử Phục Trai Đạo Nhân, kính cẩn dâng thư lên Tôn giả nối pháp đời thứ hai dòng Trúc Lâm do Điều Ngự truyền xuống.
Đệ tử còn dính thường tình việc tục, tìm hiểu nơi sách Nho thì những điều đã thấy, đã nghe qua đều cạn hẹp. Nhân đối với Thầy bàn luận, mới hiểu được ý nghĩa của Thiền, sâu thật sâu vậy. Do đó tâm rất mến mộ, bèn mở đọc ngữ lục của người xưa, dù tâm có tỏ ngộ, mà khó đem lời lẽ ví dụ. Ý muốn được phiền Thầy thăng tòa giảng thuyết, song muôn việc đâu có đợi được. Mong Thầy thuật lại “Tham Thiền Chỉ Yếu”, gom lại thành một tập để tiện việc xem đọc thì nguyện đứng trong tuyết của đệ tử đã xong vậy. Rất mong! Rất mong!”
Liền phụ vào ít lời thô thiển phía sau:
“Cả đời từng chứa một cây đàn,
Năm tháng vùi chôn bởi bụi trần,
May gặp Bá Nha tay cao thủ,
Lại trao non nước nhả âm thần.”
(Bình sanh tằng súc nhất trương cầm
Mai một trần ai tuế nguyệt thâm
Hạnh ngộ Bá Nha cao diệu thủ
Cánh giao sơn thủy tự huy âm.)
Phổ Tuệ biên xong dâng lên, vua xem qua rất khen ngợi, ban thêm hai chữ “Minh Giác”, và chính tay vua viết: “Sư phong thái siêu thoát, chí khí hiên ngang, đáng gọi là người không lường. Nay xem đến bài “Tham Thiền Chỉ Yếu” do Sư dâng lên, thật là ra vào có phép tắc, bước đi có quy cũ, nếu không phải tâm cơ bậc tài ba, kế sách vị tướng giỏi, đâu hay được như thế ư? Tông phong của giòng Trúc Lâm chính thế mà chẳng suy sụp, đáng ban khen thêm hai chữ “Minh Giác”…
Niên hiệu Khai Thái thứ hai (1325) vua ra chiếu thỉnh Tôn giả Phổ Tuệ đến chùa Tư Phúc giảng Tuyết Đậu Ngữ Lục, đến tháng chín giảng tiếp kinh Viên Giác.
Năm Bính Dần niên hiệu Khai Thái thứ ba (1326) vua thỉnh Ngài Phổ Tuệ vào chùa Tư Phúc trong đại nội thọ phép quán đảnh.
Năm Mậu Thìn (1328) vua thỉnh Quốc Sư Pháp Cổ ở núi Cảo giảng Niêm Tụng Kinh Kim Cang của Ngài Xuyên Lão.
Năm Khai Hựu thứ hai (1330), Tôn giả bệnh, vua đích thân đến thăm. Sau khi Tôn giả tịch, vua ban mười lượng vàng xây tháp và tự tay ban thêm hiệu “Tịnh Trí Tôn giả”, tháp hiệu Viên Thông, đồng thời làm thơ tỏ lòng nhớ tiếc, như đã liệt bày ở chương Phổ Tuệ.
Vua sai Trung sứ đến đệ tử nối pháp là Huyền Quang hỏi tìm ngữ lục và hành trạng của Tôn giả, Huyền Quang vâng chiếu biên góp lại vua sai khắc bản lưu hành tại đại nội, tự viết lời tựa, cùng những lời tán, tựa, bạt của thần quan gồm sáu mươi bảy người.
Tháng 6 năm Canh Ngọ vua ra chiếu mời Ngài Huyền Quang đến chùa Tư Phúc ở đại nội giảng Đại Huệ Ngữ Lục, càng làm sáng tỏ yếu chỉ Thiền. Giảng xong, vua có viết thư nói: “Giảng xong Đại Huệ Lục, Bán Ẩn Đạo Nhân xin trình kiến giải, tự nguyện nối pháp Đại tôn đức, xem kỹ có được chăng? Nếu được là may mắn lắm!
Tụng: Côn Sơn Đại Đạo Sư,
Làm ruộng phước vì ta,
Vua tôi đều qui kính,
Phật đạo mải tiếp xa.
Nối pháp sau Nhị Tổ,
Oai Âm trước, vượt qua,
Chẳng dính tướng văn tự,
Như Lai Thiền nói ra.
Xưa nay không lớn nhỏ,
Đồ chứa tùy vuông tròn,
Thương ta trong nhà lửa,
Vốn bởi có duyên xưa.
Tự nếm mùi sữa pháp,
Thân nghe cảm giác nhẹ.
Thùng sơn chợt bể vỡ,
Tám xoi bảy phủng kìa.
Sẽ bảo có chỗ được,
Chỗ được ấy vật gì?
Sẽ bảo không chỗ được,
Tham học há luống qua!
Chỗ được không chỗ được,
Muốn nói khó lời ra,
Nói năng đã khó được,
Ai nhận ai truyền ha?
Sắn bìm cũng chẳng ít,
Đã trói còn buộc à!
Dừng! Dừng!
Thế nhưng bất đắc dĩ,
Kệ ngắn lập lại mà.
Theo sau bày xong tướng này”.
(Côn Sơn Đại Đạo Sư
Vị ngã tác phước điền
Vương thần tất qui kính
Phật đạo tục hoàn liên.
Pháp kế Nhị Tổ hậu,
Cứu cánh Oai Âm tiền
Bất trước văn tự tướng
Diễn thuyết Như Lai Thiền.
Bổn lai vô đại tiểu
Nhậm khí tùy phương viên
Cố ngã hỏa trạch trung
Cái thị hữu túc duyên.
Thân thường pháp nhũ vị
Thân thể giác khinh tiên.
Tất dũng hốt đả phá
Bát huyệt dữ thất xuyên.
Tương vị hữu sở đắc
Sở đắc hà vật yên.
Tương vị vô sở đắc
Tham học phi đồ nhiên
Sở đắc vô sở đắc
Dục ngữ thù nan ngôn.
Ngôn ngữ ký nan đắc
Thùy thọ phục thùy truyền
Cát đằng diệc bất thiểu
Như phược cánh thiêm triền.
Chỉ Chỉ,
Nhiên nhi bất đắc dĩ
Đoản kệ phục trùng tuyên
Tùy hậu tác liễu thử tướng.)
Ngài Huyền Quang dâng thư đáp lại lược nói: “Chỉ một cái này liền nuốt hết lùm gai góc, thấu qua vòng kim cang, là thời tiết gì vậy?” Ngài thuật thêm một tắc xưa trình vua: “Giống như người xưa nói: bên phải mời chú cước tụng ra, chẳng cần ngay dưới một câu thuật lại, chẳng cần xé nát, chẳng cần gậy hét, chẳng cần phủi áo liền đi, hãy mau vì thần Tăng đem một câu nói lại?”
Vua xem xong, lấy bút phê vào phía sau: “Chỉ cần ngay dưới một câu, chỉ cần xé nát, chỉ cần gậy hét, chỉ cần phủi áo liền đi, chẳng vì Hòa thượng đem câu nói lại”.
Trung sứ Phạm Nhân Khanh đem đến cho Ngài Huyền Quang, Sư một phen thấy liền thầm nhận, bèn nói: người xưa nói: “Người đến ngay được chỗ chẳng nghi thì giả sử nghịch hay thuận, muôn cảnh hiện tiền, thấy như chẳng thấy, tôi nhận được rồi! Song còn một việc thừa, đợi giáp mặt dâng lên”.
Sau đó, Huyền Quang đến gặp vua trò chuyện như bàn việc trong nhà, vừa mở lời liền biết chỗ nơi. Vua lại ra chiếu thỉnh Ngài Huyền Quang đến Thiên Trường giảng Hoàng Bá Tâm Yếu. Từ khi Sư đã nhận y bát của Tôn giả Phổ Tuệ ở Côn Sơn đến lúc ra trụ trì đều nhờ sức vua duy trì. Đến khi xây dựng chùa Đại Tư Quốc ở Côn Sơn cũng đều do vua giúp cho gần mười ngàn người làm, thí vàng bạc tính có hàng ngàn.
Đến trong mùa hạ khoảng năm Ất Mùi – Bính Thân (13 -1356) vua mời Cảnh Huy giảng Tập Nhân Thiên Nhãn Lục và mời Ngài Kim Sơn đến chứng minh. Vua lại ra chiếu mời Ngài Kim Sơn giảng Bích Nham Tập, nghiên cứu đại ý về Tụng Cổ của Tuyết Đậu. Vua lại làm bài Thiền Học Chánh Tông Minh trình Ngài Kim Sơn nói: “Tổ Sư Thiền vốn không lời, thế nào nói học? Nếu có chỗ để học, là đem lầm đến lầm rồi. Tông vốn không tà, thế nào nói chánh? Nếu có chỗ chánh, thuốc liền thành bệnh. Hàng thiền học phải nhằm nơi chính mình mà tìm, chúng sanh vốn sẵn có. Nói là tánh, là tâm; tâm cốt tại sáng, tánh cốt tại thấy, sanh tử dù có dời đổi, mà trước sau chẳng biến. Đến người sau thì khoe bày kỳ lạ, nói ngang nói dọc, đầu lưỡi tự tại, xé rách da mặt người, móc tròng mắt người, đi quanh giường đứng thẳng, phủi tay áo liền đi, ném cầu, đánh trống, giơ ngón tay, le lưỡi, chư Tổ ứng cơ tâm lão bà tha thiết, mỉm cười đưa cành hoa một mình đâu có riêng khác? Lời thô tiếng tế đều về đệ nhất nghĩa. Tổ Sư Kim Sơn được tủy ngài Phổ Tuệ chánh lệnh thật hành, nói quanh chỉ thẳng, có giết có tha, có buông có thu, có thu có buông, có cứu sống có giết chết, hiểu ta hay nghiêm trách ta, đâu kể năm tháng.”
Vua sắp thăng hà có làm bài kệ trình Ngài Kim Sơn:
Đệ tử Vô Cảnh ở trong bệnh,
Gởi Thiền Tổ thứ ba Trúc lâm.
Bệnh nặng mang cả tuần,
Đêm nằm sáng uống thuốc
Hạt gạo chẳng dính răng
Hạt hạt đều nhai đến.
Như có người hỏi,
Mùi vị thế nào?
Đáp không mùi vị.
Vua lại trình thêm bài kệ:
Chứa thuốc để trị bệnh,
Không bệnh thuốc đâu cần,
Nay cơm gạo có không,
Người không miệng nhai được.
(Đệ tử Vô Cảnh bệnh trung,
Ký Trúc Lâm tam đại thiền Tổ,
Bảo kha dục hiệp tuần
Dạ ngọa trú phục dược
Bất khiết nhất lạp mễ
Lạp lạp giao giảo trước
Như hữu nhân vấn
Tư vị như hà
Đáp vô tư vị.
* * *
Súc dược dục trị bệnh,
Vô bệnh an dụng dược,
Kim hữu vô mễ phạn,
Vô khẩu nhân giảo trước).
Vua lại đưa thư thỉnh Ngài Kim Sơn đến thăm bệnh tại phòng tăng ở Động Thiên.
Tháng giêng năm Đinh Dậu niên hiệu Thiệu Phong thứ mười bảy (1357), vua xuất một xâu chuổi bằng vàng làm vật tặng sư để từ biệt. Đến ngày 19 tháng 02 vua lặng lẽ thăng hà, chẳng uống thuốc, chẳng ăn dùng, hưởng 58 tuổi đời.
Còn một số bài kệ tụng của vua làm, được chép trong Côn Sơn Thần Khuê Tập.
Giảng:
Vua Minh Tông là vua thứ sáu nhà Trần, con của Anh Tông. Lên ngôi ngày 18 tháng 03 năm Giáp Dần (1314), đổi niên hiệu Đại Khánh.
Lúc vua Anh Tông thỉnh Tôn giả Phổ Tuệ vào điện Thiên An trong hội Nhân Vương trao giới Bồ tát tại gia, Minh Tông đích thân thọ giới và vâng làm theo. Từ đó, vua thường tham hỏi về yếu chỉ thiền.
Vua Trần Minh Tông là một ông vua thọ giới Bồ tát khi còn nhỏ và cũng thực hành theo giới đã thọ từ thưở nhỏ.
Năm Đại Khánh thứ 9 (1323), vua ra chiếu thỉnh Tôn giả Phổ Tuệ soạn quyển “Tham Thiền Chỉ Yếu”, lời như sau: “Đệ tử Phục Trai Đạo Nhân, kính cẩn dâng thư lên Tôn giả nối pháp đời thứ hai dòng Trúc Lâm do Điều Ngự truyền xuống.
Đệ tử còn dính thường tình việc tục, tìm hiểu nơi sách Nho thì những điều đã thấy, đã nghe qua đều cạn hẹp. Nhân đối với Thầy bàn luận, mới hiểu được ý nghĩa của Thiền, sâu thật sâu vậy. Do đó tâm rất mến mộ, bèn mở đọc ngữ lục của người xưa, dù tâm có tỏ ngộ, mà khó đem lời lẽ ví dụ. Ý muốn được phiền Thầy thăng tòa giảng thuyết, song muôn việc đâu có đợi được. Mong Thầy thuật lại “Tham Thiền Chỉ Yếu”, gom lại thành một tập để tiện việc xem đọc thì nguyện đứng trong tuyết của đệ tử đã xong vậy. Rất mong! Rất mong!” Đây là lời vua Trần Minh Tông thỉnh Tôn giả Pháp Loa soạn quyển Tham Thiền Chỉ Yếu, lời lẽ rất khiêm nhường thiết tha, hiện rõ tâm mến mộ Phật Pháp của vua. Vua tự xưng là đệ tử Phục Trai Đạo Nhân, vua yêu cầu Tôn giả Pháp Loa tóm tắt đường lối tu thiền viết thành một tập, đề tựa là Tham Thiền Chỉ Yếu, để cho vua tiện việc xem đọc, thì sở nguyện đứng trong tuyết của vua mới tròn. Nguyện đứng trong tuyết là dẫn câu chuyện Tổ Huệ Khả ở Thiếu Lâm đứng trong tuyết, chờ Tổ Đạt Ma quay lại để đảnh lễ, cầu xin khai thị với tất cả lòng thiết tha khao khát. Ngày nay vua Minh Tông thiết tha muốn được học thiền với tất cả lòng kính trọng, giống như Ngài Huệ Khả đứng trong tuyết cầu pháp với Tổ Bồ Đề Đạt Ma vậy.
Liền phụ vào ít lời thô thiển phía sau:
Bình sanh tằng súc nhất trương cầm
Mai một trần ai tuế nguyệt thâm
Hạnh ngộ Bá Nha cao diệu thủ
Cánh giao sơn thủy tự huy âm.
Dịch:
Cả đời từng chứa một cây đàn,
Năm tháng vùi chôn bởi bụi trần,
May gặp Bá Nha tay cao thủ,
Lại trao non nước nhả âm thần.
Đây là bốn câu thơ trình kiến giải của vua Minh Tông. Vua nói rằng: “Cả đời từng chứa một cây đàn”. Đàn nầy không phải đàn tranh, đàn tì bà… mà là đàn không dây. Cây đàn không dây nầy có sẵn trong nhà, vì không lấy ra đàn nên “năm tháng vùi chôn bởi bụi trần”. Ngày lại tháng qua cây đàn bị bụi trần phủ lấp, nên cây đàn trở thành vô dụng. Nhưng, “may gặp Bá Nha tay cao thủ, lại trao non nước nhả âm thần”. Cây đàn không dây nầy gặp được tay cao thủ tài tình như Bá Nha khảy, thì tiếng đàn hòa lẫn trong nước trong non, vang lên những âm thanh vi diệu.
Hai câu đầu của bài kệ vua Minh Tông nói, nơi thân năm uẩn có sẵn tâm thể chân thật, nhưng bị phiền não trần lao che phủ không biết không sử dụng được. Cũng giống như cây đàn có sẵn trong nhà bị bụi bặm vùi lấp. Hai câu sau vua nói, nhờ gặp được thiện tri thức là Tôn giả Pháp Loa hướng dẫn nhắc nhở, mới nhớ mình có tâm thể chân thật, vua tiến tu thì tâm thể chân thật phát ra diệu dụng phi thường, làm lợi ích cho mọi người. Giống như cây đàn nhờ gặp được tay cao thủ Bá Nha khảy, mới phát ra những âm thanh vi diệu như sóng vỗ dưới nước, gió thổi lá cây reo trên non vậy.
Phổ Tuệ biên xong dâng lên, vua xem qua rất khen ngợi, ban thêm hai chữ “Minh Giác”. Và chính tay vua viết: “Sư phong thái siêu thoát, chí khí hiên ngang, đáng gọi là người không lường. Nay xem đến bài “Tham Thiền Chỉ Yếu” do Sư dâng lên, thật là ra vào có phép tắc, bước đi có quy cũ, nếu không phải tâm cơ bậc tài ba, kế sách vị tướng giỏi, đâu hay được như thế ư? Tông phong của giòng Trúc Lâm chính thế mà chẳng suy sụp, đáng ban khen thêm hai chữ “Minh Giác”…
Ở trước, Tôn giả Pháp Loa được vua Anh Tông ban cho hiệu Phổ Tuệ, ở đây Minh Tông ban cho hiệu Minh Giác. Tôn giả Pháp Loa soạn xong quyển Tham Thiền Chỉ Yếu dâng lên vua Minh Tông, vua xem qua, khen ngợi tán thưởng. Vua nói Ngài là người thông thái siêu thoát, chí khí hiên ngang, không thể dùng tâm phàm tình mà đo lường được tư cách phong thái của Ngài. Vua khen Ngài là người ra vào có phép tắc, bước đi có qui cũ, nếu không phải tâm cơ của bậc tài ba, kế sách của vị tướng giỏi đâu hay được như thế.
Người có trách nhiệm hướng dẫn Tăng Ni Phật tử tu hành như Tôn giả Pháp Loa, hay người sau nầy phải nắm vững qui củ phép tắc trong nhà đạo, thì mới có thể hướng dẫn mọi người tu hành có kết quả. Khi soạn cuốn Tham Thiền Chỉ Yếu, ngài Pháp Loa vạch ra đường lối tu từ cạn tới sâu, từ thấp lên cao. Ngài chỉ rõ chỗ nào là chỗ thiết yếu, chỗ nào là chỗ phương tiện để cho người tu không lầm lẫn. Do đó vua Minh Tông mới khen Ngài là bậc tâm cơ tài ba, là vị tướng giỏi có kế sách hay, mới làm được việc phi thường là kế thừa dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và truyền lại cho đời sau.
Niên hiệu Khai Thái thứ hai (1325) vua ra chiếu thỉnh Tôn giả Phổ Tuệ đến chùa Tư Phúc giảng Tuyết Đậu Ngữ Lục, đến tháng chín giảng tiếp Kinh Viên Giác.
Vua thỉnh Tôn giả Pháp Loa vào nội cung ở chùa Tư Phúc giảng Ngữ Lục của ngài Tuyết Đậu và giảng Kinh Viên Giác cho vua nghe.
Năm Bính Dần niên hiệu Khai Thái thứ ba (1326) vua thỉnh ngài Phổ Tuệ vào chùa Tư Phúc trong đại nội thọ phép quán đảnh.
Đúng ra trong nhà Thiền thì không có lễ quán đảnh. Nhưng theo phong tục của người Ấn Độ thì mỗi khi Thái tử lên ngôi vua, thay vua cha trị vì thiên hạ thì làm lễ quán đảnh. Lễ quán đảnh là rưới nước lên đầu Thái tử, coi như giờ phút đó là vua cha truyền ngôi cho con và từ giờ phút đó Thái Tử làm vua chính thức. Trong đạo cũng ảnh hưởng phong tục nầy, nên những học trò ngộ được ý chỉ của thầy, là người đáng tin cậy, thì ông thầy cũng làm lễ quán đảnh. Chỗ khác gọi là truyền tâm ấn, chứng nhận người đệ tử xứng đáng kế thừa sự truyền bá của mình.
Năm Mậu Thìn (1328) vua thỉnh Quốc Sư Pháp Cổ ở núi Cảo giảng Niêm Tụng Kinh Kim Cang của Ngài Xuyên Lão.
Xuyên Lão là biệt danh của thiền sư Đạo Xuyên dòng Lâm Tế đời Tống ở Trung Hoa. Ngài ở chỗ thiền sư Liêm xuất gia và ngộ đạo khoảng năm 1127 hoặc năm 1130. Sau khi Ngài ngộ đạo có người đem kinh Kim Cang đến chất vấn. Ngài làm Niêm Tụng (kệ) để trả lời. Trả lời xong Ngài biên lại thành sách, người sau đọc thấy hay thích quá nên để là “Xuyên Lão Kim Cang Kinh Chú” Xuyên là Đạo Xuyên, Lão là trưởng lão, danh từ dùng để chỉ người đáng kính trọng.
Năm Khai Hựu thứ hai (1330), Tôn giả bệnh, vua đích thân đến thăm. Sau khi Tôn giả tịch, vua ban mười lượng vàng xây tháp và tự tay ban thêm hiệu “Tịnh Trí Tôn giả”, tháp hiệu Viên Thông, đồng thời làm thơ tỏ lòng nhớ tiếc, như đã liệt bày ở chương Phổ Tuệ.
Vua Minh Tông rất kính trọng Tôn giả Pháp Loa, nên khi Tôn giả bệnh vua đến thăm. Khi Tôn giả tịch vua cúng vàng để xây tháp và đề tên tháp là Viên Thông. Tháp Viên Thông hiện giờ còn ở chùa Thanh Mai trên Thanh Mai Sơn. Vua rất thương quí Tôn giả nên có làm bài thơ đề tựa:
Vãn Pháp Loa Tôn Giả đề Thanh Mai Tự. Bài thơ nầy không có trong Thánh Đăng Lục, tôi trích trong Sử giảng cho quí vị nghe.
Thùy thủ trần hoàn dĩ liễu duyên,
Giác Hoàng kim lũ đắc nhân truyền.
Thanh Sơn mạn thảo quan tàng lý,
Bích thọ thâm sương xác thuế thiền.
Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt,
Hiểu mê trượng thất hữu vô yên.
Tương đầu châm giới ta phi tích,
Trác tựu ai chương thế lệ huyền.
Dịch:
Trần thế tay buông đã hết duyên,
Giác Hoàng kim tuyến được người truyền.
Thanh Sơn cỏ rậm chôn chiếc dép,
Cây biếc sương dày lấp xác ve.
Đêm ẩn giảng đường trăng kim cổ,
Ngày nương trượng thất có không mây.
Hợp duyên kim cải xưa đã vắng,
Nặn nọt lời thơ lệ ướt dầm.
Trần thế tay buông đã hết duyên, Giác Hoàng kim tuyến được người truyền. Vua nói Tôn giả Pháp Loa đã hết duyên với trần thế nên đã buông tay ra đi. Ngài là người được Điều Ngự Giác Hoàng truyền cho chiếc y kim tuyến và nay chiếc y kim tuyến của Điều Ngự Giác Hoàng được Ngài truyền cho Tôn giả Huyền Quang.
Thanh Sơn cỏ rậm chôn chiếc dép, Cây biếc sương dày lấp xác ve. Câu “Thanh Sơn cỏ rậm chôn chiếc dép”, nhắc lại sự tích Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi tịch, được nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ. Sau Hiếu Trang Đế cho người mở cửa tháp dở quan tài, thì ra quan tài trống không chỉ có một chiếc dép. Ý vua muốn nói Thanh Mai Sơn cỏ mọc rậm rạp, chôn vùi cái tháp của Ngài và giờ đây có lẽ trong tháp
chỉ còn chiếc dép thôi, Ngài thì đi mất rồi! Cảnh Thanh Mai Sơn hiện giờ chỉ có cây xanh, sương dày đặc phủ lấp xác những con ve, thật là tiêu điều.
Đêm ẩn giảng đường trăng kim cổ, ngày nương trượng thất có không mây. Giảng đường là nơi Ngài giảng dạy lúc sanh tiền, bây giờ đêm về chỉ thấy mặt trăng kim cổ soi rọi, chớ không thấy Ngài nữa. Còn trượng thất là nơi Ngài ở, bây giờ ngày đến chỉ có những lùm mây có không ẩn hiện, chớ Ngài không còn ngồi ở đó nữa. Hai câu nầy nói lên hình ảnh giảng đường vắng vẻ, trượng thất quạnh hiu khi Ngài đã khuất bóng.
Hợp duyên kim cải xưa đã vắng, nặn nọt lời thơ lệ ướt dầm. Danh từ kim cải người đời thường dùng. Cây kim và hạt cải gặp nhau liền hút nhau, hình ảnh nầy nói lên chỗ tương ưng thích hợp giữa hai người. Vua muốn nói cái duyên thầy trò giữa Tôn giả Pháp Loa và vua rất là hợp. Điều mà Tôn giả giảng dạy thì vua lãnh hội ngay, điều mà vua học hiểu trình lên, Tôn giả chấp nhận liền, thầy trò rất thông cảm nhau, nên gọi là duyên kim cải. Vua nói ngày xưa thầy trò rất hợp nhau, bàn luận rất tâm đắc, nhưng nay thầy đã vắng bóng, trò không gặp được nữa, nên nặn nọt làm thơ tưởng nhớ thầy mà lệ tuôn ướt dầm. Đó là lòng thương tưởng của vua Minh Tông đối với Tôn giả Pháp Loa, khi đến Thanh Mai Sơn viếng tháp của Ngài.
Vua sai Trung sứ đến đệ tử nối pháp là Huyền Quang hỏi tìm ngữ lục và hành trạng của Tôn giả. Huyền Quang vâng chiếu biên góp lại vua sai khắc bản lưu hành tại đại nội, tự viết lời tựa, cùng những lời tán, tựa, bạt của thần quan gồm sáu mươi bảy người.
Tháng 6 năm Canh Ngọ vua ra chiếu mời ngài Huyền Quang đến chùa Tư Phúc ở đại nội giảng Đại Huệ Ngữ Lục, càng làm sáng tỏ yếu chỉ Thiền. Giảng xong, vua có viết thư nói: “Giảng xong Đại Huệ Lục, Bán Ẩn Đạo Nhân xin trình kiến giải, tự nguyện nối pháp Đại tôn đức, xem kỹ có được chăng? Nếu được là may mắn lắm!
Sau khi Tôn giả Huyền Quang giảng Đại Huệ Ngữ Lục, vua làm bài kệ trình kiến giải:
Côn Sơn Đại Đạo Sư
Vị ngã tác phước điền
Vương thần tất qui kính
Phật đạo tục hoàn liên.
Pháp kế Nhị Tổ hậu,
Cứu cánh Oai Âm tiền
Bất trước văn tự tướng
Diễn thuyết Như Lai Thiền.
Bổn lai vô đại tiểu
Nhậm khí tùy phương viên
Cố ngã hỏa trạch trung
Cái thị hữu túc duyên.
Thân thường pháp nhũ vị
Thân thể giác khinh tiên.
Tất dũng hốt đả phá
Bát huyệt dữ thất xuyên.
Tương vị hữu sở đắc
Sở đắc hà vật yên.
Tương vị vô sở đắc
Tham học phi đồ nhiên
Sở đắc vô sở đắc
Dục ngữ thù nan ngôn.
Ngôn ngữ ký nan đắc
Thùy thọ phục thùy truyền
Cát đằng diệc bất thiểu
Như phược cánh thiêm triền.
Chỉ Chỉ,
Nhiên nhi bất đắc dĩ
Đoản kệ phục trùng tuyên
Tùy hậu tác liễu thử tướng.
Dịch:
Côn Sơn Đại Đạo Sư,
Làm ruộng phước vì ta,
Vua tôi đều qui kính,
Phật đạo mãi tiếp xa.
Nối pháp sau Nhị Tổ,
Oai Âm trước, vượt qua,
Chẳng dính tướng văn tự,
Như Lai Thiền nói ra.
Xưa nay không lớn nhỏ,
Đồ chứa tùy vuông tròn,
Thương ta trong nhà lửa,
Vốn bởi có duyên xưa.
Tự nếm mùi sữa pháp,
Thân nghe cảm giác nhẹ.
Thùng sơn chợt bể vỡ,
Tám xoi bảy phủng kìa.
Sẽ bảo có chỗ được,
Chỗ được ấy vật gì?
Sẽ bảo không chỗ được,
Tham học há luống qua!
Chỗ được không chỗ được,
Muốn nói khó lời ra,
Nói năng đã khó được,
Ai nhận ai truyền ha?
Sắn bìm cũng chẳng ít,
Đã trói còn buộc à!
Dừng! Dừng!
Thế nhưng bất đắc dĩ,
Kệ ngắn lập lại mà.
Theo sau bày xong tướng này.
Côn Sơn Đại Đạo Sư, làm ruộng phước vì ta, vua tôi đều qui kính, Phật đạo mãi tiếp xa. Vua Minh Tông tỏ lòng quí kính, tán thán khen ngợi công đức Tôn giả Huyền Quang. Sở dĩ gọi Tôn giả Huyền Quang là Côn Sơn Đại Đạo Sư, vì ngài trụ trì chùa trên núi Côn Sơn. Vua tán thán Tôn giả Huyền Quang là người luôn luôn làm ruộng phước cho thí chủ, nhất là nhà vua. Thế nên vua, quần thần, muôn dân đều kính trọng, khiến cho đạo Phật mãi mãi được nối tiếp lâu dài.
Nối pháp sau Nhị Tổ, Oai Âm trước, vượt qua, chẳng dính tướng văn tự, Như Lai Thiền nói ra. Tôn giả Huyền Quang là người nối pháp dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử sau Nhị Tổ Pháp Loa. Nhưng sự thật thì từ đức Phật Oai Âm Vương về trước cũng là pháp đó, chớ không có pháp nào khác. Thế nên nói nối pháp Nhị Tổ, nhưng chính là nối pháp từ đức Phật Oai Âm Vương mãi cho đến sau nầy. Vua nhắc lại tông chỉ của Thiền Tông do Tổ Bồ Đề Đạt Ma tuyên bố:
Bất lập văn tự,
Giáo ngoại biệt truyền.
Trực chỉ nhân tâm,
Kiến tánh thành Phật.
Vì không lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nên vua nói chẳng dính tướng văn tự. Không có văn tự làm sao dính được? Thiền không kẹt ở ngôn ngữ văn tự là Như Lai Thiền. Chỗ nầy có một số học giả nhận xét hơi lẫn lộn. Các vị có đề cập đến Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền. Như Lai Thiền là thiền Phật dạy như Ngũ Đình Tâm Quán, Tứ Niệm Xứ Quán v.v… Còn Tổ Sư Thiền là Thiền do Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy với tông chỉ “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Vua nói Như Lai Thiền là nói gọn tên “Như Lai Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền”. Đó là một tên khác của Tổ Sư Thiền. Nếu hiểu Như Lai Thiền ở đây là Thiền Tứ Niệm Xứ, Thiền Ngũ Đình Tâm v.v. thì lầm lẫn. Như Lai vua nói ở đây là Như Lai Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền, vì Thiền nầy chỉ thẳng tự tánh của mỗi người. Tự tánh của mỗi người vốn thanh tịnh, nếu nhận ra tự tánh thanh tịnh của mình là thành Phật, nên nói Như Lai Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền. Thiền nầy chỉ thẳng Phật tánh sẵn có của mỗi người, chớ không phải phương pháp tu thiền Phật dạy trong kinh. Nhớ, tự tánh thanh tịnh có sẵn nơi mình là Như Lai, nên đây vua nói Như Lai Thiền. Còn Như Lai Thiền mà Phật dạy trong kinh chúng ta thường giảng trạch với Tổ Sư Thiền, thì nghĩa Như Lai nầy chỉ cho Phật Thích Ca.
Xưa nay không lớn nhỏ, đồ chứa tùy vuông tròn, thương ta trong nhà lửa, vốn bởi có duyên xưa. Tự Tánh Thanh Tịnh vốn có nơi mỗi người xưa nay không có lớn nhỏ, ở người cao lớn nó không lớn ra, ở nơi người thấp bé nó không nhỏ lại. Nếu tự tánh thanh tịnh ở nơi người lớn thấy có lớn, ở nơi người nhỏ thấy có nhỏ thì giống như đồ chứa thấy có vuông tròn. Đừng nghĩ rằng ở nơi người to lớn thì Tự tánh của họ to lớn, ở nơi người thấp bé thì tự tánh của họ nhỏ bé. Nghĩ như thế là sai lầm. Vua lại nói Phật Tổ thương chúng ta ở trong nhà lửa, bị lửa vô thường thiêu đốt không dừng. Nhưng nhờ chúng ta đã có duyên xưa, nên đem chánh pháp giảng dạy cho tu hành để thoát ra.
Lúc tôi nói chuyện ở trường Đại Học Tổng Hợp Thành Phố có dẫn câu “Tam giới vô an du như hỏa trạch” trong kinh Pháp Hoa. Sau có một ít người phản bác lại rằng: Ngày xưa nóng bức chịu không nỗi giống như ở trong nhà lửa, ngày nay nóng bức thì mở máy điều hòa, đâu có nóng mà nói ở trong nhà lửa? Như vậy nói ở trong nhà lửa lúc nầy thật không hợp. Người nói câu nầy nghĩ nhà lửa là lửa tứ đại, chớ không biết rằng nhà lửa trong kinh nói là lửa vô thường. Dù ở trong nhà mở máy điều hòa ở độ thật thấp lạnh cóng, cũng không khỏi lửa vô thường thiêu đốt. Lạnh hay nóng đều bị lửa vô thường thiêu đốt, chớ không phải chỉ có nóng mới bị lửa vô thường. Đã là lửa vô thường thiêu đốt thì ở xứ lạnh hay xứ nóng cũng đều bị thiêu đốt hết, chớ không riêng một nơi nào. Tóm lại bốn câu nầy nói, chúng ta có tâm thể thanh tịnh sáng suốt mà chúng ta quên đi, nên bị vô thường thiêu đốt, nên sanh đây tử kia liên tục không dừng. Nhưng xét kỹ thì chúng ta có duyên từ thuở nào, nên Phật Tổ mới đem chánh pháp giảng dạy cho chúng ta nhớ để nhận ra. Nếu chúng ta không có sẵn tâm thể thanh tịnh thì không chắc gì Phật Tổ nhắc mà nhớ được.
Tự nếm mùi sữa pháp, thân nghe cảm giác nhẹ, thùng sơn chợt bể vỡ, tám xoi bảy phủng kìa. Vua nói Tổ Huyền Quang giảng Đại Huệ Ngữ Lục, Ngài nghe thích thú giống như nếm được sữa pháp vậy. Trong nhà Phật thường dùng từ pháp nhũ là sửa pháp. Thầy dạy đạo lý cho đệ tử học, lần lần trí tuệ của đệ tử tăng trưởng giống như người mẹ cho con bú sữa, đứa bé dần dần được lớn khôn. Nếu đứa bé không nhờ sữa mẹ thì nó không lớn, người học trò không được pháp nhũ của thầy thì không mở mang trí tuệ. Thế nên pháp nhũ nuôi đệ tử, giống như sữa mẹ nuôi con vậy. Vua nói Ngài nghe pháp cảm thấy lòng nhẹ nhàng thanh thản, rồi bỗng dưng một hôm thùng sơn chợt vỡ tan, hay nói cách khác là thùng sơn lủng đáy. Nhà thiền dùng hình ảnh này rất hay. Quí vị có thùng sơn không? Và, đã lủng đáy chưa? Thùng sơn của quí vị chắc là thùng sơn hạng nhất, thuộc loại sơn khó bay chớ không phải loại dễ bay, nên nghe giảng một năm, hai năm, ba năm… cũng chưa vỡ. Hôm nào nghe giảng thùng sơn quí vị vỡ ra, sơn tuột xuống hồ Tuyền Lâm, còn lại cái thùng trống rỗng thì thong thả nhẹ nhàng biết bao! Nếu thùng sơn còn đặc quá thì thật là khổ, muốn cho nhẹ, hết tối đen cũng không được vì sơn còn đậm quá! Thế nên quí vị rán làm cho thùng sơn mình vỡ đi. Nhưng muốn cho thùng sơn vỡ phải làm sao? Phải chịu tám lần xoi bảy lần phủng, xoi đi đục lại hoài mới lủng. Nếu để im im hoài thì không bao giờ lủng được. Đó là phương pháp làm cho thùng sơn lủng đáy.
Sẽ bảo có chỗ được, chỗ được ấy vật gì? Sẽ bảo không chỗ được, tham học há luống qua! Khi thùng sơn lủng đáy thì sẽ bảo có chỗ được, ngộ đạo là được. Vậy được là được cái gì? – Được mà không được gì cả. Nếu không được thì sao? “Sẽ bảo không chỗ được”. Nếu không chỗ được thì “tham học há luống qua”. Tu học đến thùng sơn lủng đáy mà không có gì hết thì tu học làm chi cho uổng? Như vậy bốn câu nầy xác định chúng ta tu học là có sở đắc hay không sở đắc? Đây là chỗ mà nhiều người băn khoăn thắc mắc. Nếu không sở đắc thì tu trở thành rỗng không, vậy tu làm chi? Còn nếu có sở đắc thì kẹt ở pháp có không thì đâu có tự do tự tại. Tôi thường dùng ví dụ chúng ta có hạt ngọc quí, vì quí nên cất rất kỹ không cho ai biết, cất lâu nên quên không nhớ cất ở chỗ nào. Bây giờ nhớ lại mới đi tìm, một hôm bất chợt gặp hòn ngọc. Khi gặp lại hòn ngọc có nói mình được hòn ngọc không? Cái đã có sẵn mà quên, giờ nhớ lấy ra thì được cái gì? Cái mình không có ai đem cho mới gọi là được. Cái của mình mình quên, giờ nhớ lấy ra tuy nói được nhưng sự thật thì không được. Đứng về lý nói không được, vì nó vốn là của mình bây giờ lấy ra thì có gì gọi là được? Nhưng đứng về sự tướng thì được, tuy của mình nhưng vì quên mất, bây giờ nhờ ra công tìm kiếm mới có, nên nói là được. Tuy nói được mà không được, đây là danh từ chuyên môn nhà Phật thường dùng. Cái từ trước mình không có bây giờ mình có thì nói là được. Còn cái đã có sẵn mà mình quên, giờ nhớ tìm lại được, thì được cái mình quên chớ không phải được cái mới có. Được cái mình quên thì được cũng như không được. Bởi nói được nên người ta hiểu lầm cái đó mới có, do mình mới tìm được, nhưng sự thật nó đã có sẵn rồi. Như vậy cái bỏ quên mình tìm ra không có nghĩa là được, song vì tìm ra nên tạm nói là được.
Xưa tuy chúng ta có hòn ngọc quí, vì cất rồi quên cho nên nghèo, bây giờ nhớ lại tìm ra, đem sử dụng nên giàu. Như vậy không phải được, do nhớ lấy nó ra dùng nên giàu, do quên nó nên nghèo. Giàu là nhớ tìm ra nó, tuy nói không được mà được. Chỗ nầy là chỗ rất quan trọng đối với người tu. Có nhiều người nghe nói không có chỗ được, sanh chán nản nghĩ rằng tu hành khổ cực cuối cùng không được gì hết, như vậy tu chi cho khổ cực! Ở thế gian hưởng dục lạc có sướng hơn không! Hiểu như vậy là sai lầm.
Chỗ được không chỗ được, muốn nói khó lời ra, nói năng đã khó được, ai nhận ai truyền ha? Ở đây nói có chỗ được, nói không chỗ được là tạm nói, thật ra dù có nói cũng không hết ý nghĩa. Vì không được nên tu vô ích mà được thì được cái gì? Đã nói ra không được không hết ý, bây giờ nói truyền là truyền cái gì? Ai truyền cho ai? Chỗ nầy nếu người tu thiền không thông, thì sẽ nói sai lầm rằng tôi được truyền của một vị Thiền sư. Nói như vậy người ta sẽ thắc mắc truyền là truyền cái gì?
Ví dụ tôi có cây gậy vị nào tu giỏi, tôi nói: “Tôi trao chú cây gậy”. Trao gậy gọi là truyền gậy. Nhưng cây gậy dùng để chống đi chớ có ý nghĩa gì mà truyền? Nói truyền cây gậy là chuyện vô nghĩa, vì ai truyền cũng được. Song ở đây nói truyền là truyền cái gì? Chỗ nầy rất khó! Chuyện truyền gậy có một vị thiền sư nói:
– Nếu ông có cây gậy thì ta cho ông cây gậy, ông không có cây gậy thì ta cướp cây gậy của ông.
Có cây gậy cho thêm cây gậy là thừa. Không có gậy, gậy đâu mà cướp? Nói như vậy là sao? Chỗ nầy ý nói rằng, nếu biết mình có thể chân thật, nỗ lực tu hành nhận ra, thì thầy ấn chứng cho mình, đó là trao gậy. Nếu mình không nhận ra thể chân thật, đó là cây gậy của mình bị thầy lấy mất. Mới nghe qua thấy thật là phi lý, nhưng sự thật là như vậy. Cốt lõi của Thiền Tông là thầy chỉ thẳng tâm thể chân thật của trò, nếu trò không nhận ra thì thầy đâu có truyền y bát hay truyền gậy. Nếu trò nhận ra tâm thể sẵn có của mình, thì thầy truyền y bát hay truyền gậy. Truyền y bát hay truyền gậy chẳng qua là để làm bằng chứng, để cho mọi người biết vị đó đã nhận ra tâm thể rồi, vị thầy đã tin tưởng. Không phải cái y cái bát, cây gậy là gốc của sự truyền thừa. Và, tâm thể người trò nhận ra cũng không phải cái mà vị thầy cho được, mà chính của người trò tự nhận ra thầy mới ấn chứng. Ấn chứng bằng lời nói thì không có bằng chứng cụ thể để mọi người tin, nên phải cho một món đồ để làm chứng tín. Có nhiều người không hiểu lấy vật chứng tín làm của qúi, làm cái cứu cánh rồi tranh giành với nhau, thật là sai lầm. Khi người ta rượt tìm Lục Tổ để giật y bát, Ngài nói y bát là vật chứng tín, không phải cái để tranh giành. Người chưa ngộ, nếu giành được y bát có làm Tổ đựơc không? Giá trị của sự truyền trao ở chỗ nhận ra bản thể của mình, chớ không phải giá trị ở cái y cái bát. Sự thật không có cái gì để truyền hết, nhưng vị thầy biết người đệ tử đã thâm nhập đựơc chỗ Phật Tổ chỉ bày, phương tiện trao vật làm chứng tín, chớ không có cái gì để truyền.
Sắn bìm cũng chẳng ít, đã trói còn buộc à! Tất cả văn tự ngôn ngữ nói ra đều gọi là sắn bìm, nói năng nhiều là bị dây sắn dây bìm trói buộc thêm chặt chớ không có lợi.
Dừng! Dừng! Nhà vua nói, thôi thôi đừng nói nữa.
Thế nhưng bất đắc dĩ, kệ ngắn lập lại mà. Nhà vua nói, Ngài bất đắc dĩ lập lại bài kệ này cho mọi ngừơi nghe chơi. Sau này, nhà vua đem đốt hết, nhưng có người sưu tập ghi lại, nên bây giờ mới có bản này cho chúng ta học.
Theo sau bày xong tướng này. Có lẽ sau này có họa một hình ảnh mà đây không có để. Qua bài kệ này, chúng ta thấy nhà vua nghe giảng xong Ngữ Lục, Ngài thâm nhập làm kệ để dâng trình, nghĩa lý thật thấu đáo đáng cho chúng ta nể phục. Ngài là một ông vua bận lo việc nước việc dân, mà còn ham học đạo ham tu, thấu suốt đựơc đạo lý. Sánh với chúng ta là ngừơi xuất gia học đạo từ thuở bé đến giờ, nghe giảng dạy rất nhiều có ai đã thông suốt như Ngài không? Nếu không thông suốt thì chúng ta quá dở.
Ngài Huyền Quang dâng thơ đáp lại lược nói: “Chỉ một cái này liền nuốt hết lùm gai góc, thấu qua vòng kim cang, là thời tiết gì vậy?” Ngài thuật thêm một tắc xưa trình vua: “Giống như người xưa nói: bên phải mời chú cước tụng ra, chẳng cần ngay dưới một câu thuật lại, chẳng cần xé nát, chẳng cần gậy hét, chẳng cần phủi áo liền đi, hãy mau vì thần tăng đem một câu nói lại?”
Tôn giả Huyền Quang đọc bài kệ trên xong, viết thơ đáp lại, khen: “Chỉ một cái này”. Cái này là chỗ thấu suốt mà nhà vua trình bày ở trên. Cái này là cái nuốt sạch hết mọi thứ gai góc, không có cái gì làm trở ngại, dù là vòng kim cang cứng chắc nó cũng vượt qua. Đó là thời tiết của thùng sơn lủng đáy. Tôn giả Huyền Quang tuy biết thùng sơn nhà vua lủng đáy rồi, nhưng muốn nhà vua trình thêm nữa cho chắc. Giống như khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma nghe ngài Huệ Khả nói: “Con đã bặt hết các duyên”. Nghe như vậy là biết ngài Huệ Khả đã đến chỗ đáng khen rồi, nhưng Tổ phải gạn lại “Chớ rơi vào đoạn diệt!”, để xác định coi ngài Huệ Khả đã thấy tới đâu. Ngài Huệ Khả đáp: “Con thường biết rõ ràng nói không thể đến”. Tổ dạy: “Đây là chỗ truyền của chư Phật, chớ nên hoài nghi”. Cũng vậy, ở đây tuy Tôn giả Huyền Quang khen, nhưng Ngài nói thêm “Giống như người xưa nói: bên phải mời chú cước tụng ra, chẳng cần ngay dưới một câu thuật lại, chẳng cần xé nát, chẳng cần gậy hét, chẳng cần phủi áo liền đi, hãy mau vì thần tăng đem một câu nói lại”. Nói cho dễ hiểu là Tôn giả Huyền Quang bảo: nhà vua không được dùng chữ để giải thích, không đựơc nói, không đựơc gởi thơ rồi xé bỏ, không đựơc hét, không được dùng gậy, không được phủi áo ra đi. Bây giờ nhà vua hãy nói cho tôi một câu coi! Đây là thuật của nhà thiền, khi hỏi đến chỗ nói không đựơc thì hét lên một tiếng là trả lời, bây giờ không cho hét. Hỏi chỗ nói không đựơc thì đập cho một gậy, bây giờ cấm không cho dùng gậy đánh. Chỗ nói không được thì đưa thơ với hình vẽ rồi xé bỏ, bây giờ không cho xé bỏ. Chỗ nói ra ngừơi nghe nhận đựơc, nhưng thấy thừa phủi áo đứng dậy đi, bây giờ không cho phủi áo đi, mà bảo nói một câu.
“Vua xem xong lấy bút phê vào phía sau: “Chỉ cần ngay dưới một câu, chỉ cần xé nát, chỉ cần gậy hét, chỉ cần phủi áo liền đi, chẳng vì Hòa thựơng đem câu nói lại”.
Tất cả những cái mà Tôn giả Huyền Quang không cho nói không cho làm, thì nhà vua nói và làm. Nếu chúng ta bị Tôn giả Huyền Quang gạn như thế thì không biết làm sao. Nhưng nhà vua thì đảo ngược lại hết. Không cho dùng một câu thì ngay dưới câu cho một câu, không cho xé bỏ thì xé bỏ, không cho hét thì hét, không cho dùng gậy thì dùng gậy đánh, không cho phủi áo ra đi thì phủi áo liền đi, không vì Hòa thượng nói một câu. Tóm lại cái không cho làm thì làm, cái bảo làm thì không làm. Đó là nhà vua vì Tôn giả Huyền Quang nói một câu rồi. Thật hành động nói năng lạ đời!
Trung sứ Phạm Nhân Khanh đem đến cho ngài Huyền Quang, sư một phen thấy liền thầm nhận, người xưa nói: “Người đến ngay được chỗ chẳng nghi thì giả sử nghịch hay thuận muôn cảnh hiện tiền, thấy như chẳng thấy, tôi nhận đựơc rồi! Song còn một việc thừa, đợi giáp mặt dâng lên”.
Tôn giả Huyền Quang nhận câu trả lời của vua, Ngài thầm nhận, nhưng Ngài nói còn thừa một chút, để hôm nào gặp tận mặt vua Ngài sẽ nói thêm.
Sau đó, Huyền Quang đến gặp vua trò chuyện như bàn việc trong nhà, vừa mở lời liền biết chỗ nơi. Vua lại ra chiếu thỉnh ngài Huyền Quang đến Thiên Trường giảng Hoàng Bá Tâm yếu. Từ khi sư đã nhận y bát của Tôn giả Phổ Tuệ ở Côn Sơn đến lúc ra trụ trì đều nhờ sức vua duy trì. Đến khi xây dựng chùa Đại Tư Quốc ở Côn Sơn cũng đều do vua giúp cho gần mười ngàn người làm, thí vàng bạc tính có hàng ngàn.
Về sau những Phật sự Tôn giả Huyền Quang làm đựơc đều do vua Trần Minh Tông ủng hộ.
Đến trong mùa hạ khoảng năm Ất Mùi Bính Thân (1355-1356) vua mời Cảnh Huy giảng Tập Nhân Thiên Nhãn Lục và mời ngài Kim Sơn đến chứng minh. Vua lại ra chiếu mời ngài Kim Sơn giảng Bích Nham Tập, nghiên cứu về đại ý Tụng Cổ của Tuyết Đậu. Vua lại làm bài Thiền Học Chánh Tông Minh trình ngài Kim Sơn nói:
Tại sao ở đây vua Minh Tông chỉ mời Thiền sư Cảnh Huy giảng Thiên Nhân Nhãn Lục và mời ngài Kim Sơn chứng minh và giảng Bích Nham Tập mà không mời Tôn giả Huyền Quang? Lúc này khoảng năm 1356 Tôn giả Huyền Quang đã tịch rồi, nên không mời đựơc mà phải mời các vị này. Có nhiều người nghe vua nói ngài Kim Sơn, ngài Cảnh Huy cũng là người kế thừa Tổ Pháp Loa, nên hiểu lầm cho các Ngài là Tổ thứ ba. Vì Tôn giả Huyền Quang bấy giờ đã tịch, nên vua coi hai vị này như là Tổ thứ ba, chớ không phải là người kế thừa chánh thống.
Tổ sư Thiền vốn không lời, thế nào nói học? Nếu có chỗ để học là đem lầm đến lầm rồi.
Tổ sư Thiền vốn không lời thì không thể học được. Nếu nói có chỗ để học thì lầm, từ cái lầm này dẫn đến cái lầm khác, từ cái sai này dẫn đến cái sai khác.
Tông vốn không tà, thế nào nói chánh? Nếu có chỗ chánh, thuốc liền thành bệnh.
Tông là chủ yếu, nếu nói không tà không lệch thì đâu có nói chánh, nếu nói tà thì có nói chánh. Hễ nói tà nói chánh liền thành bệnh. Cũng như Thiền thì không học mà nói học là lầm. Nhưng nói Thiền không học tại sao mời các Thiền sư tới giảng? Thiền không học mà học. Cũng như không có tà, nhưng vì có lệch nên phải nói chánh.
Hàng Thiền học phải nhằm nơi chính mình mà tìm, chúng sanh vốn sẵn có.
Người học Thiền thì phải nơi chính mình mà tìm, vì Phật tánh vốn có sẵn nơi mỗi ngừơi, ai ai cũng có.
Nói là tánh, là tâm; tâm cốt tại sáng; tánh cốt tại thấy, sanh tử dù có dời đổi, mà trước sau chẳng biến.
Tánh là gì, tâm là gì? Tánh và tâm khác nhau chỗ nào, mà ở đây nhà vua nói là tánh là tâm? Tánh là cái không đổi dời không xê dịch, cái gì đổi dời xê dịch thì không phải là tánh. Ví dụ lửa rơm thì cháy bừng bừng, lửa than thì cháy âm ỉ. Tướng cháy bừng bừng của lửa rơm khác với tướng cháy âm ỉ của lửa than. Nhưng dù lửa rơm hay lửa than tánh nóng không đổi khác lúc nào cũng nóng. Tánh của nước lúc nào cũng ướt, không thay đổi, nhưng tướng của nứơc khi thì lỏng (nước lả) khi thì cứng (nước đá) khi thì hơi (hơi nước). Như vậy tánh là cái không thay đổi. Tại sao ở đây nói là tánh là tâm? Theo kinh Lăng Nghiêm thì tâm của con người có tâm chân tâm vọng. Niệm suy nghĩ phải quấy tính toán hơn thua là tâm vọng, tâm này sanh diệt không dừng, hiện đủ thứ tốt xấu, thay hình đổi dạng luôn luôn nên gọi là tâm vọng. Còn chân tâm là cái biết hằng hữu, ở nơi mắt thì thấy, nơi tai thì nghe, nơi mũi thì ngửi, nơi lưỡi thì nếm… Thấy, nghe, ngửi, nếm… lúc nào cũng biết. Cái biết hằng hữu không đổi dời là cái biết thật gọi là tâm chân, nó không đổi thay nên cũng gọi là tánh. Thế nên ở đây nói là tánh là tâm, tâm cốt tại sáng, tánh cốt tại thấy. Sở dĩ nói tâm cốt tại sáng vì nó sáng và biết nên gọi là tâm. Sở dĩ nói tánh cốt tại thấy vì nó hằng hữu lúc nào cũng có nên gọi là tánh. Dù cho sanh tử đổi dời trước sau nó không biến đổi.
Đến người sau thì khoe bày kỳ lạ, nói ngang nói dọc, đầu lưỡi tự tại, xé rách da mặt người, móc tròng mắt người, đi quanh giường đứng thẳng, phủi tay áo liền đi, ném cầu, đánh trống, giơ ngón tay, le lưỡi, chư Tổ ứng cơ tâm lão bà tha thiết, mĩm cười đưa cành hoa một mình đâu có riêng khác.
Qua đoạn này chúng ta thấy nhà vua đọc nhiều kinh sách. Ngài nói thể chân thật thì đơn giản ai cũng có. Nhưng người sau tức là chư Tổ nhiều vị bày ra những phương tiện đặc biệt kỳ lạ. Ví dụ hỏi con chó có Phật tánh không? Người này hỏi Tổ trả lời có, người kia hỏi Tổ trả lời không. Đó là đầu lưỡi các ngài tự tại, nói ngang nói dọc làm cho người nghe hốt hoảng, méo mặt, méo mày đứng tròng mắt, ngó qua cũng trật, ngó lại cũng trật, không biết nhìn đâu cho đúng. Đó là xé rách da mặt móc tròng mắt người.
Đi quanh giường đứng thẳng là hình ảnh của Ma Cốc chống gậy đến Chương Kỉnh, đi nhiễu giường thiền ba vòng, dộng tích trượng một cái, đứng nghiễm nhiên.
Phủi tay áo liền đi là hình ảnh của ngài Đức Sơn đến pháp hội Qui Sơn, Ngài vào pháp đường từ phía Tây đi qua phía Đông, lại từ phía Đông sang phía Tây, hỏi: “Có chăng? Có chăng?” Tổ Qui Sơn ngồi lặng lẽ không ngó tới. Ngài nói: “Không! Không!” liền đi thẳng ra cửa, tự nói: “Tuy nhiên như thế cũng chẳng đặng thô xuất”. Ngài bèn đầy đủ oai nghi đi trở vào. Vừa bước ra cửa, Ngài đưa tọa cụ lên, gọi: “Hòa thượng!” Tổ Qui Sơn toan nắm phất tử, Ngài liền hét, phủi áo ra đi.
Ném cầu là hình ảnh của ngài Tuyết Phong. Khi Huyền Sa Sư Bị đến hỏi: “Hiện nay có đại dụng, Hòa thượng phải làm sao?” Ngài đem ba trái cầu gỗ đồng thời ném ra.
Đánh trống là hình ảnh của ngài Hòa Sơn dạy chúng: Tập học gọi là nghe, tuyệt học gọi là gần, qua đựơc hai cái này là thật qua. Có vị tăng ra hỏi: “Thế nào là thật qua?” Hòa Sơn đáp: “Biết đánh trống”. Tăng lại hỏi: “Thế nào là chân đế.” Hòa Sơn đáp: “Biết đánh trống”. Tăng hỏi: “Tức tâm tức Phật thì chẳng hỏi, thế nào là phi tâm phi Phật?” Hòa Sơn đáp: “Biết đánh trống”. Tăng hỏi: “Khi người hướng thượng đến làm sao tiếp?” Hòa Sơn đáp: “Biết đánh trống”.
Giơ ngón tay là hình ảnh của Hòa thượng Câu Chi mỗi khi có người đến thưa hỏi Ngài chỉ đưa một ngón tay.
Le lưỡi là hình ảnh của ngài Hoàng Bá sau khi nghe Tổ Bá Trượng dạy chúng: Phật Pháp không phải là việc nhỏ, lão tăng bị Mã Tổ một nạt đến ba ngày lỗ tai còn điếc. Ngài Hoàng Bá nghe nói bất giác le lưỡi.
Tất cả những hình ảnh vừa nêu trên là những phương tiện của chư Tổ, vì tâm lão bà tha thiết muốn cho người học đạo, ngộ được tâm thể sẵn có của mình, chớ không có ý riêng. Tất cả những phương tiện đó không ngoài ý nghĩa của câu chuyện đức Phật ở hội Linh Sơn đưa cành hoa sen, Tổ Ca Diếp mĩm cười.
Lời thô tiếng tế đều về đệ nhất nghĩa.
Lời thô là những lời la hét, lời tế là lời nói nhẹ nhàng, cốt đều giúp người trở về đệ nhất nghĩa
Tổ Sư Kim Sơn được tủy ngài Phổ Tuệ chánh lệnh thực hành, nói quanh chỉ thẳng, có giết có tha, có buông có thu, có thu có buông, có cứu sống có giết chết, hiểu ta hay nghiêm trách ta, đâu kể Xuân Thu.
Do nhà vua nói câu Tổ Sư Kim Sơn được tủy ngài Phổ Tuệ chánh lệnh thực hành nên nhiều người hiểu lầm ngài Kim Sơn là đệ tử ngài Phổ Tuệ. Hiểu như vậy là bỏ quên ngài Huyền Quang là tổ thứ ba của dòng thiền Trúc Lâm. Sau tồ thứ hai là Phổ tuệ. Bấy giờ Tổ Huyền Quang tịch, ngài Kim Sơn còn sống nên vua coi ngài Kim Sơn là người đại diện cho ngài Phổ Tuệ, thì chuyện nầy hợp lý. Tuy nhiên, không thể phủ nhận ngài Huyền Quang là vị Tổ thứ ba được.
Nói quanh chỉ thẳng là sao? Thiền sư Vô Nghiệp mỗi khi có người thưa hỏi, hoặc thế nào là Phật, thế nào là đạo? Ngài đều trả lời:
– Chớ vọng tưởng!
Không vọng tưởng thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì Phật hiện tiền. Đó là câu chỉ thẳng.
Thiền sư Động Sơn Lương Giới, có người đến hỏi:
– Thế nào là Phật?
Ngài trả lời:
– Ba cân gai.
Ngài nói ba cân gai, người nghe không hiểu Ngài nói gì, ngẩn ngơ không khởi niệm được nên bặt nghĩ suy. Đó là nói quanh. Nói quanh để người nghe bặt nghĩ suy, bặt nghĩ suy thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì Phật hiện tiền. Tuy nói quanh mà chỉ thẳng.
Nói thẳng thì quá đơn giản nên người nghe xem thường. Vì vậy nên chư Tổ sau nầy ít nói thẳng mà thường nói quanh. Nói thẳng hay nói quanh đều là phương tiện.
Thế nào là có giết có tha, có buông có thu, có thu có buông, có cứu sống có giết chết? Ví dụ có một thiền tăng tới hỏi Tổ Lâm Tế:
– Thế nào là đại ý Phật Pháp?
Tổ liền hét. Đó là giết hay tha? Quí vị trả lời coi!
Xưa, tôn giả Nghiêm Dương hỏi ngài Triệu Châu:
– Một vật chẳng có đem lại thì như thế nào?
Ngài Triệu Châu bảo:
– Buông bỏ đi!
– Một vật chẳng có đem lại thì buông bỏ cái gì?
– Thế thì vác lên mà đi!
Nghiêm Dương nghe xong đại ngộ.
Bảo buông là giết, bảo mang là tha. Tâm đã không còn một vật mà hỏi phải làm sao, tức là Nghiêm Dương còn nghĩ có cái gì đó để tu, nên Thiền sư Triệu Châu bảo buông bỏ là buông bỏ “cái ý nghĩ làm sao” đó. Thế mà Nghiêm Dương chưa hội lại hỏi tiếp “Một vật chẳng có đem lại thì buông bỏ cái gì?” Ngài mới bảo: “Thế thì vác lên mà đi!” Tu không còn một vật để buông là tới chỗ cứu cánh rồi, ngay đó tùy nghi sử dụng, mà không biết còn hỏi, nên Ngài bảo “vác lên mà đi!” Thật là khéo, thế mà chúng ta nghe thấy lạ, thấy kỳ. Buông không được thì mang lên, nhưng có gì đâu mà mang?Đó là nói có giết có tha, có buông có thu… chỗ nầy vua Minh Tông thắc mắc không biết là thông cảm hay nghiêm trách Ngài. Sau đó vua dẫn sách Xuân Thu để kết thúc. Sách Xuân Thu do Khổng Tử san định lịch sử nước Lỗ trong thời Xuân Thu, từ vua Ẩn Công đến Ai Công suốt 242 năm. Khổng Tử vừa ghi chép vừa phê phán rất đanh thép, nên vua Minh Tông dẫn sách Xuân Thu để kết thúc.
Vua sắp băng hà có bài kệ trình ngài Kim Sơn:
Đệ Tử Vô Cảnh bệnh trung,
Ký Trúc Lâm Tam Đại Thiền Tổ
Bảo kha dục hiệp tuần
Dạ ngọa trú phục dược
Bất khiết nhất lạp mễ
Lạp lạp giai giảo trước
Như hữu nhân vấn
Tư vị như hà
Đáp vô tư vị.
Dịch:
Đệ tử Vô Cảnh ở trong bệnh,
Gởi thiền Tổ thứ ba Trúc Lâm.
Bệnh nặng mang cả tuần,
Đêm nằm sáng uống thuốc.
Hạt gạo chẳng dính răng,
Hạt hạt đều nhai đến.
Như có người hỏi,
Mùi vị thế nào?
Đáp không mùi vị.
Đệ tử Vô Cảnh ở trong bệnh, gởi Thiền Tổ thứ ba Trúc Lâm. Vô Cảnh là một hiệu khác của vua Minh Tông. Thiền Tổ thứ ba Trúc Lâm là chỉ cho ngài Kim Sơn. Tôn giả Huyền Quang là Tổ thứ ba sau Tôn giả Pháp Loa được coi như đệ tử của Tôn giả Pháp Loa. Ngài Kim Sơn cũng là đệ tử của Tôn giả Pháp Loa, nhưng vì Tôn giả Huyền Quang đã tịch, vua xem ngài Kim Sơn như Tổ thứ ba trong hệ phái Trúc Lâm. Vua bệnh viết thơ gởi cho ngài Kim Sơn đời thứ ba trong hệ phái Trúc Lâm.
Bệnh nặng mang cả tuần, đêm nằm sáng uống thuốc. Vua bệnh cả tuần rồi, ban đêm thì nằm, ban ngày thì uống thuốc. Như thế là bệnh trầm trọng. Nhưng:
Hạt gạo chẳng dính răng, hạt hạt đều nhai đến. Đây là hai câu nói ngược trong nhà Thiền. Hạt gạo chẳng dính răng là không ăn, không ăn nhưng hạt nào cũng nhai nát hết. Không ăn mà tại sao nhai nát hết những hạt gạo? Ý hai câu nầy nói tu đến chỗ không còn dụng công, không còn ăn để sống nhưng vẫn sống, nên nói hạt hạt đều nhai nát.
Như có người hỏi, mùi vị thế nào? Đáp không mùi vị. Tại sao nhai nát mà không mùi vị? Thói thường nơi mũi chúng ta quen ngửi mùi thơm hôi, nơi lưỡi quen nếm vị ngon dở. Thơm hôi, ngon dở v.v. là tướng đối đãi tạm bợ không thật có. Chỗ chân thật thì không đối đãi, vì không đối đãi nên không mùi vị.
Vua lại trình thêm bài kệ:
Súc dược dục trị bệnh,
Vô bệnh an dụng dược,
Kim hữu vô mễ phạn,
Vô khẩu nhân giảo trước.
Dịch :
Chứa thuốc để trị bệnh,
Không bệnh thuốc đâu cần,
Nay cơm gạo có không,
Người không miệng nhai được.
Chứa thuốc để trị bệnh, không bệnh thuốc đâu cần. Vua nói người đời chứa thuốc để trị bệnh, nhưng người không bệnh thì chứa thuốc để làm gì? Nếu không bệnh thì không cần thuốc, thuốc để lâu bị hư thành vô nghĩa.
Nay cơm gạo có không, người không miệng nhai được. Ngài nói hoặc là có cơm gạo hoặc là không cơm gạo người không miệng nhai được. Cơm gạo là để ăn, ăn bằng miệng. Không miệng làm sao ăn? Bậy mà không miệng ăn được, đây là lối nói ngược. Thông thường người ta dùng miệng ăn cơm để sống, nhưng có người không miệng mà vẫn ăn vẫn sống. Chúng ta thường nói có ăn mới có sống không ăn thì chết. Người không miệng có nghĩa không ăn mà vẫn hiện hữu vẫn sống, coi như không miệng mà ăn được và vẫn sống không chết. Đó là kiền giải của vua Minh Tông trình với ngài Kim Sơn về “người chân thật” qua bài kệ.
Vua lại đưa thư thỉnh ngài Kim Sơn đến thăm bệnh tại phòng tăng ở Động Thiên.
Tháng Giêng năm Đinh Dậu niên hiệu Thiệu Phong thứ mười bảy (1357), vua xuất một xâu chuỗi bằng vàng làm vật tặng sư để từ biệt. Đến ngày 19 tháng 2 vua lặng lẽ băng hà, chẳng uống thuốc chẳng ăn dùng, hưởng thọ 58 tuổi đời.
Còn một số bài kệ tụng của vua làm, được chép trong Côn Sơn Thần Khuê Tập.
Chúng ta thấy vua Minh Tông khi bệnh sắp chết vẫn an ổn làm kệ trình cho thầy. Sau khi trình kệ rồi, mời thầy tới để nói chuyện và tặng vật để từ giả. Đây là một trong năm vị vua đời Trần học Phật ngộ được lý thiền, đối với sự sanh tử rất bình tỉnh an nhiên, không lo buồn sợ sệt.
Sau đây tôi trích bài Giới Am Ngâm trong Côn Sơn Thần Khuê Tập giảng cho quí vị thấy cái đặc biệt của vua Minh Tông.
Giới Am Ngâm
Giới am bán gian khả dung tất,
Ngột ngột đằng đằng tự độ nhật.
Bách điểu bất lai xuân trú nhàn,
Tiêu nhiên tứ bích chân vô vật.
Vật nhược vô trần bích bất lập,
Mê lư giới tử tùng hà nhập.
Thùy nhân tư phá giới am trung,
Thất lộ tiện sử thiên ma khấp.
Cơ lai bảo khiết phạn nhất bát,
Than thủy mãn bình khả tiêu khát.
Đằng sàng chẩm thượng trác ngọ miên,
Chỉnh thi cá trung chân khoái hoạt.
Kinh dã bất khán Phật bất nghĩ,
Y nhãn hà vi kim thiết quí.
Khách lai vấn cập bản lai nhân,
Nhận khám y tiền hoàn bất thị.
Hưu hưu ngoại mích khổ thi công,
Phất phất tỷ khổng cổ kim đồng.
Giới am tất cánh vô kỳ vật,
Chỉ ma mi hoành tỷ trực ông.
Dịch:
Ngâm Am Tranh
Nửa gian am tranh dung tất cả,
Ngơ ngơ ngáo ngáo qua ngày tháng.
Trăm chim chẳng đến ngày xuân nhàn,
Thảnh thơi bốn vách thật không vật.
Vật nếu không, vách sao đứng vững,
Muôn ngàn vật nhỏ từ đâu đến?
Ai người xem thấu trong am tranh,
Lạc lối khiến cho thiên ma khóc.
Đói đến ăn no một bát cơm,
Nước trong đầy bình đủ giải khát.
Giường mây trên gối ngủ ngon lành,
Chính ngay trong ấy rất vui thích.
Kinh chẳng xem, Phật chẳng nghĩ,
Trị mắt đâu cần mạt vàng quí.
Khách sang hỏi đến người xưa nay,
Nhận thấy như xưa vẫn chẳng phải.
Thôi thôi tìm ngoài luống nhọc công,
Chẳng chẳng lỗ mũi xưa nay đồng.
Am tranh rốt cuộc không vật lạ,
Mày ngang mũi dọc chỉ là ông.
Nửa gian am tranh dung tất cả, ngơ ngơ ngáo ngáo qua ngày tháng. Am tranh này ở trong rừng, ở trên núi, hay ở đâu? Vua Minh Tông ví thân tứ đại này như cái am tranh. Ngài nói nửa gian am tranh nhỏ mà dung được tất cả. Người ở trong am tranh thì ngơ ngơ ngáo ngáo không khôn lanh. Vậy người ngơ ngơ ngáo ngáo đó là ai?
Trăm chim chẳng đến ngày xuân nhàn, thảnh thơi bốn vách thật không vật. Nếu không có chim bay đến thì nhàn nhã như mùa xuân. Trăm chim chỉ cho những duyên bên ngoài làm cho bận bịu rối rắm; bốn vách dụ cho đất nước gió lửa trong thân. Ngài nói thân này giống như am tranh bốn vách, có người ngơ ngơ ngáo ngáo ở trong đó, người này đói biết ăn mệt biết ngủ không lanh lẹ. Nếu không có duyên làm cho bận bịu thì nhàn nhã như mùa xuân. Đã nhàn nhã thì thảnh thơi, không có một vật. Tuy nói bốn vách mà không có vật gì hết, vì bốn vách không thật. Chúng ta thường quán xét thấy thân nầy do tứ đại hợp, nó không thật; thân không thật tứ đại cũng không thật, nó chỉ là những hiện tượng biến chuyển sinh diệt vô thường không thật có.
Bốn câu đầu Ngài diễn tả thân này như am tranh có bốn vách. Nhưng am tranh bốn vách không phải là am thật vách thật. Tuy nhiên nhờ nó mà người ngơ ngơ ngáo ngáo không bận bịu với thế sự ở tạm qua ngày. Vậy cái am là chủ hay người ngơ ngơ ngáo ngáo là chủ? Người ngơ ngơ ngáo ngáo là chủ. Thế mà hiện giờ đa số người nhận cái am là chủ, chớ không nhận người ngơ ngơ ngáo ngáo đang ở trong am là chủ!
Vật nếu không vách sao đứng vững, muôn ngàn vật nhỏ từ đâu đến. Xét kỹ thì am tranh nầy không có một vật thật, đã không có một vật thật tại sao vách đứng vững? Cũng vậy, tứ đại không thật nhưng tại sao thân nầy tồn tại? Tứ đại không thật thì thân nầy có thật không? Nói theo lý nầy thì trăm người đều đồng ý là không thật. Không thật là theo lý mà nói, nhưng bước ra khỏi giảng đường thì ai cũng thấy thật, thấy nó tồn tại. Sở dĩ thấy nó thật thấy nó tồn tại là vì có muôn ngàn vật nhỏ từ đâu đến. Tức là những vi trần, hay nguyên tử từ đâu hợp lại. Đó là nhân duyên tụ hợp tạm có, chớ không thật. Cái am không thật thì thử hỏi:
Ai người xem thấu trong am tranh? Có người nào đứng ngoài nhìn vô thấy ông chủ trong am tranh không? Trong chúng ta đây được bao nhiêu người thấy ông chủ trong am tranh? Nếu có thì chắc ít lắm. Đa số thì thấy am tranh chớ không thấy ông chủ am tranh. Nếu không thấy được ông chủ thì làm sao khỏi:
Lạc lối khiến cho thiên ma khóc. Có ông chủ ở trong am tranh mà chúng ta không thấy, cứ đi đông đi tây tìm nên sai đường lạc lối, khiến thiên ma thấy thương khóc cho kẻ tìm ôngchủ lạc đường. Đó là bốn câu kệ chỉ cho chúng ta thấy am tranh không thật. Tuy am tranh không thật mà có ông chủ đang ở trong đó. Chúng ta muốn tìm mà không thấy ông chủ nên cứ loanh quanh tìm bên ngoài nên bị lạc lối.
Đói đến ăn no một bát cơm, nước trong đầy bình đủ giải khát. Giường mây trên gối ngủ ngon lành, chính ngay trong ấy rất vui thích. Bốn câu nầy nói cái gì? Nói ông chủ ở trong am tranh đói thì ăn một bát cơm cũng đủ no, khát thì uống nước trong ở trong bình cũng đủ giải khát, mệt thì nằm trên giường mây kê gối ngủ ngon lành. Ngay trong ấy thật là vui thích. Ý nói người ngơ ngơ ngáo ngáo ở trong am tranh đói ăn khát uống mệt ngủ, sống như vậy thật là tự tại thanh nhàn. Nếu người đói không chịu ăn, khát không chịu uống, mệt không chịu ngủ thì không tự tại thanh nhàn. Hiện giờ chúng ta có đói ăn, khát uống, mệt ngủ không? Đói ngồi bên mâm cơm thấy cơm nguội, thức ăn không vừa cái lưỡi thì không ăn, nghĩ tới những món ngon khác. Như vậy là chúng ta ăn không phải vì bụng đói, mà vì cái lưỡi ngon dở. Khát cầm ly nước lã không uống, mà nhớ nghĩ đến nước cam nước chanh. Mệt nằm trên chỏng tre cảm thấy cấn lưng không ngủ được, gát tay lên trán tưởng tới chăn êm nệm ấm, nghĩ tới chuyện đông chuyện tây. Sở dĩ bất an là vì chúng ta sống với thói quen, sống theo tập quán và sống với tâm vọng tưởng lăng xăng chạy theo ngoại trần, nên không an ổn. Nếu chúng ta xoay lại sống với ông chủ ngơ ngơ ngáo ngáo ở trong am tranh thì đói ăn một bát cơm, khát uống một ly nước lã, mệt nằm trên chỏng mây gát đầu lên gối ngủ ngon lành. Tâm không mong cầu mơ ước cái gì. Sống như vậy thật là vui vẻ thanh nhàn. Ngược lại thì không an vui. Đó là diễn tả cách sống của người ngơ ngơ ngáo ngáo. Sau đây là diễn tả cách tu của người ngơ ngơ ngáo ngáo:
Kinh chẳng xem, Phật chẳng nghĩ, trị mắt đâu cần mạt vàng quí. Tại sao tu mà không xem kinh không niệm Phật? Như vậy thì tu cái gì? Câu “trị mắt đâu cần mạt vàng quí” trả lời nghi vấn nầy. Con mắt đang sáng lấy mạt vàng để vào mắt để trị bệnh. Tuy lấy đồ quí để trị bệnh, nhưng mắt không sáng, lại còn xốn đau hơn. Cũng vậy, khi đã sống với người ngơ ngơ ngáo ngáo tức là sống với Phật Pháp thân của mình mà còn xem kinh niệm Phật là làm cho thêm bệnh, chẳng khác nào mắt đang sáng lấy mạt vàng bỏ vào mắt, mắt không sáng lại thành bệnh. Con mắt nguyên không bệnh, nếu thêm cái gì vào dù là vật quí như vàng đều làm cho mắt bệnh.
Khách sang hỏi đến người xưa nay, nhận thấy như xưa vẫn chẳng phải. Người xưa là người ngơ ngơ ngáo ngáo ở trong am tranh, tức là ông chủ. Ông chủ đang có mặt trong am tranh, khách tới hỏi ông chủ ở đâu, làm sao chỉ? Nếu mình nhận người xưa nay, thấy như thuở nào thì không phải, tại sao nhận người xưa mà không phải? Vì người xưa là người đã có sẵn thuở nào, nếu nhận thấy người xưa thì người xưa là khách không phải là chủ. Thế nên nói nhận thấy ông chủ, thì ông chủ là kẻ bị thấy, không phải là chủ mà là khách. Ông chủ là ông chủ, ông chủ tức là mình. Còn nếu mình thấy ông chủ thì ông chủ không phải là mình. Chỗ nầy rất tế nhị nên khi ông chủ hiện tiền rồi, thì chẳng xem kinh chẳng niệm Phật, đừng thêm cái gì cả, cũng đừng nói tôi thấy được ông chủ. Tất cả đều là bệnh.
Thôi thôi tìm ngoài luống nhọc công, chẳng chẳng lỗ mũi xưa nay đồng. Người tu ai cũng muốn tìm Phật ai cũng muốn thấy ông chủ. Song tìm Phật hay thấy ông chủ thì Phật hay ông chủ là cái bị thấy ở ngoài mình. Thế nên Ngài bảo thôi thôi đừng tìm ở ngoài uổng công nhọc sức, vì Phật không có ở ngoài, ông chủ không có ở ngoài. Con người ai cũng có lỗ mũi, không ai là không có. Lỗ mũi ở trên mặt ai cũng dùng để thở như nhau, nên nói lỗ mũi xưa nay đồng. Trong nhà thiền thường dùng lỗ mũi để chỉ cho thể chân thật sẵn có nơi mình. Vì lỗ mũi là chỗ để thở và duy trì mạng sống. Muốn biết người sống hay chết thì rờ ngay lỗ mũi, nếu còn thở là sống, hết thở là chết. Như vậy mạng sống con người từ lỗ mũi; lỗ mũi thì nằm sẵn trên mặt, thế mà có mấy ai thấy được lỗ mũi mình! Ai cũng thấy lỗ mũi người mà không thấy lỗ mũi mình. Mạng sống mình sờ sờ đó mà mình không thấy mới là kỳ. Cũng vậy, nơi mình có sẵn ông Phật, lúc nào cũng hiện tiền mà mình không biết, cứ đi tìm Phật ở nơi nầy nơi kia. Giống như người đi tìm nguồn sống nơi khác, mà quên lỗ mũi đang ở trên mặt mình là nguồn sống. Trong nhà Thiền ai nắm được lỗ mũi là nhận ra thể chân thật nơi mình. Thế nên ở đây vua nói “chẳng chẳng lỗ mũi xưa nay đồng”, vì ai cũng có lỗ mũi trên mặt để thở duy trì mạng sống như nhau không khác. Như vậy con người ai cũng có lỗ mũi, thì ai cũng có Phật tánh như nhau, đừng nói Phật mới có Phật tánh, Tổ mới có Phật tánh, chúng ta là phàm phu vô phần. Chúng ta là người ai cũng có Phật tánh như Phật như Tổ, tại vì mình quên, cũng như ai cũng có lỗ mũi là nguồn sống, mà có người nhớ có người quên.
Am tranh rốt cuộc không vật lạ, mày ngang mũi dọc chỉ là ông. Trong am tranh rốt cuộc không có vật gì lạ hết, chỉ có một ông chân mày ngang lỗ mũi dọc thôi. Ở trên nói tất cả chúng ta đều có lỗ mũi như nhau. Tới đây nói nơi am tranh không có vật lạ, chỉ có người mày ngang mũi dọc mà thôi. Người này ai cũng có nên trong nhà Phật có câu “Mày ngang mũi dọc như nhau, lòng phàm lòng thánh khác nhau nghìn trùng”. Ai cũng có mày ngang mũi dọc như nhau, nhưng người thì tâm phàm, người thì tâm thánh khác nhau rất xa. Tâm phàm là tâm chạy theo trần cảnh mê đắm ngũ dục. Tâm thánh là tâm không nhiễm sáu trần, biết rõ mình có thể chân thật bất sanh bất diệt. Thế nên cũng đi, cũng đứng, cũng ăn, cũng ở, mà có người thì tâm rất phàm tục, có người tâm rất thánh thiện, chỉ khác nhau ở chỗ này. Qua bài Ngâm Am Tranh, chúng ta thấy rõ vua Minh Tông nhận ta ông chủ trong am và biết cách sống của ông chủ trong am. Đây là điểm đáng qúi đáng tán thán của vua Minh Tông.
Bây giờ tôi ôn lại để qúi vị thấy tinh thần Thiền qua các vị vua đời Trần. Có ba điểm chúng ta phải lưu ý. Điểm thứ nhất là các vua đời Trần rất tỉnh sáng, vui cười trong giờ phút lâm chung. Điểm này nhắc chúng ta và bạn bè chúng ta khi ra đi phải làm gì? Điểm thứ hai là Thiền đời Trần có đặc điểm gì mà tôi chủ trương khôi phục? Điểm thứ ba là người tu Thiền làm sao tránh khỏi bệnh và tại sao bị bệnh?
Gần đây ở Thường Chiếu, sau những buổi giảng Thiền sư Trung Hoa, các Phật tử có nêu lên những thắc mắc. Câu mà được nhiều Phật tử nêu lên là: Người tu Tịnh độ khi thân nhân hay bạn đạo sắp lâm chung thì niệm Phật và tụng kinh Di Đà để trợ niệm. Vậy ngừơi tu thiền khi thân nhân hay bạn đạo sắp lâm chung phải làm gì? Tu theo Thiền tông đời Trần đương nhiên chúng ta phải lấy gương của các Thiền sư đời Trần làm tiêu chuẩn, để giải quyết trường hợp thân nhân hay bạn đạo sắp lìa trần. Thánh Đăng Lục là quyển sách kể lại công hạnh tu của năm vị vua đời Trần. Năm vị vua đời Trần tu ngộ được lý Thiền, sống rất đạo đức và sáng suốt. Sau đây tôi trích dẫn những đoạn các Ngài sắp tịch để qúi vị thấy rõ hình trạng các Ngài mà ứng dụng.
1- Vua Trần Thái Tông.
Vua bệnh, Thánh Tông thăm bệnh, nhân đó hỏi:
– Chân không và ngoan không là đồng hay khác?
Vua đáp:
– Hư không là một, nhưng do tự tâm mê ngộ nên thành có chân và ngoan sai khác. Ví như phòng nhà, mở ra thì sáng, đóng lại thì tối, sáng và tối chẳng đồng, và phòng nhà là một.
Ngoan không là khoảng hư không rỗng tuếch không có vật gì. Chân không là danh từ nhà Phật chỉ cho thể chân thật của các pháp không hình không tướng. Thánh Tông nghi chân không và ngoan không nên đem ra hỏi vua cha là đồng hay khác. Bấy giờ Thái Tông bệnh mà vẫn giải thích là một. Tức là nói về cái trống rỗng thì đồng, nhưng do tự tâm mê ngộ nên thành có chân không và ngoan không sai khác. Mê thì thấy ngoan không, ngộ thì thấy được chân không. Giảng cho nghĩa này rõ hơn vua ví dụ cái phòng nhà, hư không trong phòng không đổi thay, song nếu tắt đèn thì tối, mở đèn thì sáng. Cái tối cái sáng có khác, hư không trong nhà thì không khác. Thế nên chân không và ngoan không thể nó thì đồng, vì không có tướng mạo, nhưng nhận ra chân không là giác; không nhận được chân không là mê, giống như hư không trong nhà có đèn thì sáng, không đèn thì tối. Tối sáng khác nhau chứ hư không trong nhà không khác. Đó là vua Thái Tông giải thích nghĩa chân không và ngoan không.
Ngày hôm sau, Quốc sư Đại Đăng vào thăm hỏi:
– Bệ hạ bệnh chăng?
Vua đáp:
– Tứ đại là bệnh, cái này xưa nay sanh tử không can hệ, mà dính kẹt trong bệnh hoạn sao?
Nếu chúng ta bệnh có người tới thăm hỏi: Thầy bệnh chăng? Chúng ta trả lời: Hôm nay tôi bị đau bụng hay nhức đầu. Ở đây vua không nói như thế mà nói tứ đại bệnh. Vì tứ đại duyên hợp nên có chống trái thành bệnh, còn ông chủ hay tâm thể chân thật xưa nay sanh tử không can hệ, thì bệnh hoạn đâu có dính dáng đựơc. Nghĩa là ông chủ nơi vua không bao giờ có sanh tử huống là có bệnh hoạn. Bệnh hoạn là chuyện của tứ đại. Vua Thái Tông thấy vậy có xứng đáng là một Thiền sư không? Chỗ này có một vị tăng hỏi một Thiền sư: “Hòa thượng bệnh laị có cái chẳng bệnh chăng?” Ngài đáp: “Có”. Tăng hỏi: “Cái chẳng bệnh ở đâu?” Ngài nói: “Ui da! Ui da!” Cái biết ui da không bệnh mà thân tứ đại bệnh. Như vậy thì cái thấy của vua Trần Thái Tông đâu có kém cái thấy của Thiền Tổ Trung Hoa. Đó là tôi dẫn sử để so sánh đối chiếu cho quí vị thấy cái ngộ của Tổ sư tông Tào Động và cái ngộ của vua Trần Thái Tông không khác.
Khoảng mấy ngày sau, Thái Tông lặng thinh không nói, đuổi hết kẻ hầu hạ, đem việc nước dặn dò Thánh Tông. Thánh Tông muốn nhờ hai Quốc sư Phù Vân và Đại Đăng nói pháp xuất thế cho Thái Tông nghe. Thái Tông gằn giọng bảo: “Đến trong đây, bớt một mảy tơ dường trên thịt khoét thương, thêm một mảy tơ như trong mắt để bụi. Ba đời chư Phật bốn mắt nhìn nhau, sáu đời Tổ sư thối thân có phần. Dù Phù Vân nói huyền, Đại Đăng thuyết diệu đều là lời thừa, có ích gì đối với cái này?
Chúng ta nghe vua nói như thế có hài lòng không? Thánh Tông nghĩ cha mình sắp chết, nên thỉnh các vị Thiền sư nổi tiếng như ngài Đạo Viên và Đại Đăng ở núi Yên Tử đến để trợ lực. Vua liền nói đối với thể chân thật nếu bớt một mảy tơ dường như trên thịt khoét thương tích, nếu thêm một mảy tơ giống như trong mắt để bụi vào.Nó nguyên vẹn là nguyên vẹn, như như là như như, thêm không được bớt không được. Như vậy thì “ba đời chư Phật bốn mắt nhìn nhau”. Nghĩa là chư Phật và đệ tử, thầy nhìn trò, trò nhìn thầy cảm thông thì ngộ, hai bên thầy trò nhìn nhau mà ngộ không thêm không bớt. Sáu đời Tổ Sư vị nào nghe rồi thâm nhập thối lui đảnh lễ cũng không thêm không bớt. Như vậy thì dù cho Thiền sư Phù Vân nói huyền, Thiền sư Đại Đăng thuyết diệu, đối với thể chân thật mà vua đã sống được cũng chỉ là lời thừa, không có dính dáng gì, nên vua không cần ai trợ giúp lúc sắp mệnh chung. Để thấy người tu sống được với thể chân thật, lúc tịch các vị cao tăng đến nhắc nhở còn không cần huống gì rước thầy đến niệm Phật tụng kinh.
Nói xong Ngài lặng lẽ thị tịch, nhằm năm Kỷ Mão, niên hiệu Thiệu Bảo (1279) thọ 60 tuổi.
Vua ra đi một cách thoải mái, không lo âu sợ sệt là do nhận chân được lẽ thật, nên không cần bớt cái gì không cần thêm cái gì, cứ lặng lẽ mà đi không ồn náo. Đó là bước đi cuối cùng của vua Trần Thái Tông.
2- Vua Trần Thánh Tông.
Vua bệnh, thượng sĩ Tuệ Trung gởi thơ đến thăm, vua viết vào cuối trang đáp lại:
Hơi nóng hừng hực mồ hôi đẵm
Chiếc khố mẹ sanh vẫn ráo khô.
Vua nói thân nầy bệnh đau nhức toàn thân, nhưng không dính dáng gì tới thể chân thật – chiếc áo khố mẹ sanh- Giống như trời nóng bức mồ hôi tuôn dầm dề, mà chiếc khố mẹ sanh không có dính ướt.
Đến lúc bệnh nặng, vua thường lấy ngón tay gõ vào chiếc gối, như có sở đắc điều gì. Chốc lát vua đòi bút viết bài kệ:
Sanh như mặc áo,
Chết tợ cởi trần.
Từ xưa đến nay,
Không đường nào khác.
Đến lúc đau gần chết vua còn lấy ngón tay nhịp nhịp vào gối chơi, rồi nói: “ sanh như mặc áo, chết tợ cởi trần”. Khi mở mắt chào đời thân trần trụi không áo quần, sau đó mới được cha mẹ mặc áo cho ấm. Và khi nực qúa cởi áo ra để thân trần cho mát. Ngài thấy sanh tử giống như mặc áo và cởi áo, đó chỉ là nhu cầu, không có gì quan trọng.
Vua lại nói tiếp: “Từ xưa đến nay không đường nào khác.” Từ xưa tới nay muôn muôn người triệu triệu người ai cũng đi chung con đường sanh ra rồi tử không có ai đi đường nào khác. Con người ai sanh ra rồi cũng chết, chết rồi lại sanh, ai cũng đi đường nầy không ai đi đường khác, thế tại sao lại sợ? Nếu mọi người đi đường nầy, mình phải đi đường khác, vì không biết đường khác ra sao mới sợ. Tất cả cùng đi chung một đường thì không có gì phải sợ.
Liền hét, nói:
Chữ bát mở toang đà trao phó,
Còn đâu việc nữa đáng trình anh.
Rồi vua đuổi hết kẻ hầu hạ, chỉ còn mình Nhân Tông đứng hầu một bên thưa:
– Bệ hạ còn nhớ lời của ngài Vĩnh Gia chăng?
Gần chết mà vua còn hét, oai ghê! chữ Bát chỉ cho hai chân mày, giao phó chỉ cho lỗ mũi. Lỗ mũi tượng trưng cho sinh mạng con người. Nếu đã nắm được sinh mạng rồi, thì đâu còn việc gì để nói và thưa trình với ai. Thế nên vua đuổi hết kẻ hầu người hạ, chỉ để lại một mình Nhân Tông ở lại với Ngài thôi. Nhân Tông mới nhắc lại lời của ngài Vĩnh Gia:
Rành rành thấy, không một vật,
Cũng không người chừ cũng không Phật.
Cõi cõi đại thiên bọt nổi trôi,
Tất cả Thánh hiền như điện chớp.
Dẫu cho vòng sắt trên đầu chuyển,
Định tuệ sáng tròn vẫn không mất.
Nhân Tông muốn nhắc cho vua cha nhớ chỗ căn bản đạo lý, để cho Ngài an lành trong lúc ra đi, nên mới dẫn lời của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác: chỗ rốt ráo thì rõ ràng không có một vật, cũng không có người cũng không có Phật, vì người và Phật là hai từ ngữ đối đãi giả lập không thật có. Lớn như đại thiên sa giới cũng giống như hòn bọt nổi trên mặt biển không có gì quan trọng. Tất cả Thánh hiền chỉ là giả danh không thật, giống như lằn điện chớp có đó liền mất đó. Cốt yếu là định Tuệ phải sáng tròn, dù cho trên đầu có vòng sắt cháy rực quay quanh, định Tuệ cũng không mất. Đây mới là thứ thiệt.
Vua nghe xong, bất chợt cười lên rồi gõ chiếc gối tụng:
Rành rành thấy, không một vật,
Cũng không người chừ cũng không Phật.
Cõi cõi đại thiên bọt nổi trôi,
Tất cả Thánh hiền như điện chớp.
Xong, ngay chiều hôm đó sấm gió nổi dậy, thấy một vầng ánh sáng tròn rọi nơi bức vách ngăn, vua liền băng, hưởng thọ 51 tuổi, nhằm ngày 22 tháng 5, năm Canh Dần (1290).
Gần chết mà vua còn nhớ mấy câu ca chứng đạo rồi nhịp gối ca chơi. Không như người dung thường lúc sắp chết nhìn người nầy ngó người kia thương khóc, sợ mình chết rồi không gặp lại v.v. Nhân Tông biết nên đọc những câu ca chứng đạo để tăng sức mạnh cho cha. Đây là một kinh nghiệm, nếu thân nhân sắp mất, chúng ta là người biết đạo, thấu lý thiền thì nên nhắc lại những câu đạo lý, để tăng sức mạnh cho thân nhân tỉnh táo ra đi. Đó là bước đi cuối cùng của vua Trần Thánh Tông.
3- Vua Trần Nhân Tông.
Vua Nhân Tông truyền ngôi cho con một thời gian rồi xuất gia lên núi tu. Vì xuất gia lên núi tu nên đời của Ngài là đời của thầy tu. Bởi đời của thầy tu nên tôi chỉ nhắc sơ thôi không phải nói nhiều.
Ngày mùng một tháng mười một, nửa đêm sao trời sáng tỏ, Điều Ngự hỏi:
– Hiện giờ là giờ gì?
Bảo Sát thưa:
– Giờ Tý.
Điều Ngự đưa tay mở cánh cửa sổ nhìn ra, bảo:
– Chính là giờ ta đi.
Bảo Sát hỏi:
– Tôn Đức đi đâu?
Điều Ngự đáp:
Tất cả pháp chẳng sanh,
Tất cả pháp chẳng diệt.
Nếu hay hiểu như thế,
Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi gì?
Điều Ngự biết giờ ra đi của mình, nên hỏi Bảo Sát hiện giờ là giờ gì? Bảo Sát thưa bây giờ là giờ Tý. Ngài nói chính là giờ ta đi. Bảo Sát hỏi Tôn Đức đi đâu? Ngài trả lời tất cả pháp ở thế gian không có sanh không có diệt, nếu người hiểu được như vậy thì Phật lúc nào cũng hiện tiền, nào có đến nào có đi mà hỏi. Chúng ta thấy lối đi của Ngài rất quan trọng.
Bảo Sát thưa:
– Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt thì thế nào?
Điều Ngự liền vả ngaymiệng Bảo Sát, bảo:
– Chớ nói mớ!
Nói xong, Ngài nằm theo thế sư tử lặng lẽ mà tịch.
Đã nói không sanh không diệt mà Bảo Sát còn hỏi là thế nào, nên Ngài không trả lời vả miệng Bảo Sát và quở Bảo Sát nói mớ. Quở xong, Ngài nằm theo thế kiết tường như sư tử lặng lẽ thị tịch. Đó là bước đi cuối cùng của vua Trần Nhân Tông.
4- Vua Trần Anh Tông.
Năm Canh Thân niên hiệu Đại Khánh thứ bảy (1320) vua bệnh, ra chiếu mời Tôn giả Phổ Tuệ đến gặp và hỏi:
– Bồ tát làm những hạnh nghiệp gì, để vào lại trần lao độ thoát cho chúng sanh?
Phổ Tuệ đáp:
– Người xưa sau khi được chánh kiến rồi, hằng ngày nhồi thành một mảnh, nên hay lấy sanh tử làm nơi du hí, qua lại chẳng ngại, thân tùy theo ý sanh, tùy chỗ tạm gá. Kinh Viên Giác nói: “Bồ tát trở lại trần lao, chẳng phải do ái làm gốc”.
Bây giờ nếu chúng ta bệnh nặng, mời qúi thầy tới thì hỏi cái gì? Hỏi người tu sắp chết phải làm gì để được về Cực Lạc, hay để được giải thoát sanh tử? Hỏi chuyện đi cho thảnh thơi, chớ không hỏi Bồ tát phải tu hạnh nghiệp gì để vào trần lao độ thoát chúng sanh. Nếu không trở lại thế gian thì không độ chúng sanh được, nên phải hỏi. Ngài Phổ Tuệ mới đáp: Người xưa sau khi ngộ thể chân thật nơi mình rồi, hằng ngày tu miên mật tâm nhất như lấy sống chết làm trò chơi. Thế nên chết đây sanh kia không có gì sợ. Tùy theo ý muốn sanh ở đâu thì sanh thân ở đó, tạm gá thân độ sanh hết duyên rồi thì đi. Ngài dẫn Kinh Viên Giác, Bồ tát trở lại trần lao chẳng phải do ái làm gốc. Phàm phu sinh ra trong thế gian do ái mà sanh, nào thương cha thương mẹ, thương anh thương em… mới có thân này. Còn Bồ tát do nguyện lực độ sanh mà có thân nên không phải gốc từ ái.
Vua hỏi thêm:
– Thế nào là dụng tâm chặt thẳng?
Phổ Tuệ đáp:
– Nhân Tông Điều Ngự có nói: “Buông xuống! Buông xuống! Buông chẳng xuống, liền chính là kẻ ấy”. Lại, người xưa nói “Một niệm chẳng sanh tức Phật như như”.
Ở trước tôi đã giảng kỹ chỗ này. Tới đây tôi muốn nhắc lại cho quí vị nhớ. Chỗ buông xuống thì biết rồi, còn chỗ buông chẳng xuống là cái gì? Ví dụ chúng ta ngồi thiền vọng tưởng dấy mình buông thì vọng tưởng lặng, đó là buông xuống. Bấy giờ không có vọng tưởng lúc đó buông cái gì? Tức là hết buông được, hết buông được thì gọi là chỗ buông chẳng xuống. Chỗ buông chẳng xuống chính là kẻ ấy, chính là bộ mặt thật xưa nay. Tới đây ngài Phổ Tuệ muốn rõ thêm dẫn câu “Một niệm chẳng sanh tức Phật như như”. Khi không còn một niệm dấy khởi lúc đó Phật hiện tiền. Ngài Phổ Tuệ đã chỉ cho nhà vua thấy rõ cái gốc.
Ngày hôm sau vua lại mời ngài Phổ Tuệ vào cung nói về đạo lý “Buông xuống”. Phổ Tuệ dẫn chỗ chặt thẳng của người xưa, vua mỉm cười, nói: “Đệ tử đối với lẽ này rất có sở đắc, thật chẳng dối vậy!”
Phổ Tuệ bảo:
– Dừng! Dừng! Chẳng cần nói, việc tốt chẳng bằng không.
Vua mỉm cười, trở mình nằm lại, liền băng hà, hưởng 45 tuổi đời.
Vua Trần Anh Tông mặc dù hiểu thiền, ngộ thiền và có tâm Bồ tát. Nhưng sánh với vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì yếu hơn, nên phải nhờ Thiền sư trợ lực. Khi đã thấu lý thiền vua tự khoe đã có sở đắc. Ngài Phổ Tuệ bảo dừng không cho nói, mà phải ngay đó sống, nói ra là dư. Ngang đó vua biết liền cười rồi trở mình mà đi.
5- Vua Trần Minh Tông.
Tháng giêng năm Đinh Dậu niên hiệu Thiệu Phong thứ 17 (1357), vua xuất một xâu chuỗi bằng vàng làm vật tặng sư (Kim Sơn) để từ biệt. Đến ngày 19 tháng 2 vua lặng lẽ băng hà, chẳng uống thuốc, chẳng ăn dùng, hưởng 58 tuổi đời.
Vua Minh Tông khi ra đi cũng được an ổn.
Năm vị vua nhà Trần là năm tấm gương sáng để cho chúng ta noi theo. Người tu chúng ta lúc mệnh chung ít ai bằng Trần Thái Tông cũng ít ai bằng Trần Nhân Tông. Người khá lắm thì có thể bằng Trần Anh Tông, song gần ra đi phải nhờ bậc đạo đức cao hơn, để nhắc nhở trợ thêm sức mạnh. Như vậy trong tông môn khi có một thiền sinh tịch, những thiền sư ở gần được mời tới, có nên lập bàn Phật để đem kinh ra tụng không? Muốn cho thiền sinh tỉnh trước khi ra đi, thì vị Thiền sư chỉ cần nói hoặc hỏi năm ba câu cho thiền sinh lãnh hội để ra đi nhẹ nhàng là tốt. Đó mới đúng với ước nguyện của thiền sinh mong cầu. Chớ tụng kinh nhiều mà thiền sinh cứ thở dài hoài thì có lợi ích gì? Phải trực tiếp nhắc cho họ tỉnh, mới giúp họ giải được oan khiên, để họ ra đi đựơc nhẹ nhàng. Như vậy thì trong nhà thiền có người hỏi: “Huynh đệ sắp tịch chúng ta phải làm gì?” Quí vị có câu đáp chưa? Quí vị phải hiểu chỗ này cho rõ, vì đây là phương tiện để hướng dẫn Tăng Ni phật tử sau này, nếu không nắm vững thì sẽ lúng túng.
Giả sử trong tông môn có một Phật tử đau nặng đang hấp hối, ngày thường khỏe mạnh mỗi đêm họ tụng kinh Bát Nhã. Bấy giờ chúng ta tới hỏi: Đạo hửu có nhớ câu “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách” không? Nếu họ trả lới “Nhớ” thì hỏi tiếp: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không là sao?” Họ giải đúng ý nghĩa, thì hỏi tiếp: Đạo hữu đã thấy ngũ uẩn giai không chưa? Nếu họ đã thấy thì qua hết khổ nạn ra đi thảnh thơi. Nếu họ chưa thấy thì nhắc lại cho họ tỉnh. Hoặc nhắc lại Kinh Kim Cang mà họ đã học: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” để đánh thức họ đừng luyến mến xác thân. Nếu không luyến mến xác thân thì ra đi nhẹ nhàng. Như vậy là độ họ trong giờ phút lâm chung. Chớ không phải đến thiết lập bàn Phật, tụng hai ba bộ Kinh, mình tụng thì mình tụng, họ cứ mệt cứ mê, hai bên không dính dáng gì với nhau. Như vậy tụng Kinh có lợi ích gì? Đây là vấn đề thiết yếu mà chúng ta phải biết để sau này hướng dẫn Phật tử.
Hiện tại chúng ta lấy Thiền Tông đời Trần làm cơ sở tu hành, thì phải biết khi mình sắp tịch phải như thế nào? Chẳng hạn như tôi, nếu công phu tu hành của tôi ngang với vua Trần Thái Tông, thì tôi biết rõ tôi sẽ đi đâu. Như vậy lúc tôi sắp tịch qúi vị mời các Thiền sư đến để cho tôi thêm cái gì thì tôi có ưng không? Chắc tôi phải nói: “Thôi để tôi lặng lẽ thảnh thơi ra đi, đừng có mời thỉnh qúi thầy, chỉ thêm bận rộn”. Lẽ ra cái chết trong nhà thiền lặng lẽ tẻ lạnh không rình rang. Cái lặng lẽ tẻ lạnh đó có một ý nghĩa thâm trầm của đạo, chớ không phải tẻ lạnh mà vô nghĩa. Đây là phương hướng của người tu thiền xử sự với đệ tử vơí bạn đồng đạo sắp mệnh chung. Đó là mục thứ nhất.
Bây giờ tới mục thứ hai, tại sao tôi chủ xướng khôi phục Thiền Tông đời Trần. Đây tôi chỉ nói một góc chớ không nói toàn diện để cho quí vị hiểu. Năm vị vua nhà Trần chỉ có Trần Nhân Tông xuất gia làm tăng và Tổ, còn lại bốn vị thì tu cư sĩ. Có vị về già cạo tóc ở chùa trong thành nội, tu với tánh cách tại gia, mà khi ra đi các Ngài tỉnh táo tự tại. Cuộc đời của các Ngài cho chúng ta những bài học đáng giá.
– Các Ngài ở ngôi vị vua chúa sang trọng quyền thế tột đỉnh, mà vẫn qúi đạo kính Phật lo tu hành, đó là điều mà chúng ta phải học. Vì người ở thế gian nếu có giàu lắm, thì sự nghiệp chỉ bằng một góc nhỏ của vua thôi. Vậy mà có nhiều người tu không được!
Còn chúng ta thì nghèo mạt đi tu dễ hay khó? – Dễ quá, có gì đâu mà bỏ, có gì đâu mà cám dỗ? Địa vị danh vọng quyền thế của một ông vua, mà biết hướng về đạo để tu thì chuyện quá hy hữu. Đó là cái gương sáng mà chúng ta phải học.
– Các Ngài làm vua thì đa đoan công việc, nào việc cung đình, nào việc nước việc dân… thế mà các Ngài tu có kết quả. Chúng ta ngày nay công việc rất ít, trong gia đình chỉ có năm bảy người, đâu có gì đa đoan bận rộn, chỉ làm nuôi năm bảy người mà tu không được sao? Nếu nói bận rộn thì không ai bận rộn bằng ông vua, thế mà ông vua tu được và có kết quả. Chúng ta ít bận rộn, chỉ lo cho gia đình (cư sĩ) khoảng năm bảy người, mà tu không được thì cũng là chuyện oái oăm không hợp lý. Vì vua thì biết bao nhiêu việc mà tu được có kết quả, còn chúng ta ngày nay có bao nhiêu việc đâu mà tu không được? Gần đây có những cư sĩ gặp nhau hỏi: “Anh lúc này tu có khá không?” Đáp: “Tôi lúc này bận rộn lắm, nào việc nhà việc nước lu bu tu không đựơc”. Thử hỏi ông vua việc nhà bao nhiêu việc sở bao nhiêu mà sao tu được, còn chúng ta thì tu không được? Tôi dẫn các vị vua ra đây để cho các vị cư sĩ thấy không còn nghĩ rằng mình đa đoan tu không được, mà phải can đảm khéo sắp xếp như mấy ông vua để tu được. Đó là đối với cư sĩ. Còn ngừơi xuất gia thì không có vấn đề nào hết, mọi việc đều buông mà tu không được thì hết nói. Đó là cái gương mà tôi thấy cần phải nêu lên để tất cả chúng ta chiêm nghiệm tu hành.
– Các vị vua đa số là cư sĩ, cư sĩ ngày xưa tu được ngộ đạo thì cư sĩ ngày nay tu có được ngộ đạo không? Gần đây có nhiều cư sĩ thường nói, tu muốn được giải thoát là phải xuất gia cạo đầu ở chùa như qúi thầy tu mới khả dĩ giải thoát, chớ còn làm cư sĩ thì tu không tới đâu. Một ông vua hưởng đủ thứ dục lạc trên thế gian, tu ngộ đạo, khi chết tỉnh táo ra đi thảnh thơi thì tại sao mình nói mình làm không được. Tôi dẫn các vị vua đời Trần để cho người tu nhất là cư sĩ tại gia không còn mặc cảm chỉ có người xuất gia mới tu ngộ đạo giải thoát. Nghĩa giải thoát ở đây không phải chứng tứ quả Thanh văn, nhập Niết bàn vĩnh viễn không trở lại, mà là sáu căn không dính với sáu trần, ra vào trong lục đạo như dạo chơi trong các hý trường, đó là giải thoát. Chỗ này vua Trần Anh Tông hỏi Tôn giả Pháp Loa làm sao để trở lại đời để giáo hóa độ mọi người.
Phật giáo đời Trần không hạn cuộc người xuất gia mới có thể tu ngộ đạo mà người cư sĩ tu cũng có thể ngộ đạo. Nếu chúng ta cứ quan niệm người xuất gia tu mới ngộ đạo, mới giải thoát thì ai muốn tu cũng phải vô chùa, như vậy thì chùa làm sao chứa hết? Ở Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Cao Miên người theo Phật giáo nguyên thủy, không phải xuất gia suốt đời, nên thanh niên ai cũng phải xuất gia, xuất gia vài ba năm trui rèn đạo đức rồi hoàn tục lập gia đình làm ăn. Còn các Thái Tử cũng phải xuất gia ba tháng cho có đạo đức sau đó mới lên làm vua. Thế nên ở những nước này người dân xuất gia rất đông, nhưng ở chùa thì không đông. Còn ở Việt Nam chúng ta có khác, một lần xuất gia thì không được quyền để tóc hoàn tục, mà phải tu suốt đời. Như vậy, nếu cứ đua nhau xuất gia thì e như ở Nhật Bổn thời Minh Trị Thiên Hoàng có quá nhiều chùa trong nước, mỗi chùa có mấy ngàn tăng. Xuất gia như thế thì dân chúng còn đâu làm ăn để theo kịp trào lưu tiến bộ với thế giới, nên Thiên Hoàng ra lệnh các tăng sĩ tu đến 30 tuổi phải lập gia đình. Lập gia đình xong, muốn tu nữa thì tu. Từ đó người tu đến ba mươi tuổi đều lập gia đình có con. Song ai muốn tu tiếp thì tu, ai không muốn thì ra đời luôn. Do đó mà Phật giáo Nhật Bổn có Tân tăng. Nếu cứ quan niệm xuất gia mới tu được thì vào chùa nhiều quá, người trẻ không còn ở ngoài để lo mọi công tác xã hội thì sao? Rồi đây ở Việt Nam sẽ có ngày chánh phủ cũng ra lệnh người tu tới tuổi nào đó phải có gia đình thì bấy giờ thành thông tục hóa, người xuất gia giống hệt người tại gia không hơn không kém. Thế nên muốn giữ vị trí và giá trị xuất gia riêng, tại gia riêng thì người xuất gia phải là người rảnh rang không bận bịu việc nhà việc nước sớm thức tỉnh đi tu thì người đó là người xuất gia, còn người đang bận bịu việc nhà việc nước đang làm đang sống, hiểu đạo thì cứ tu tại gia cho tốt. Nếu cùng nhau rủ vô chùa hết thì làm sao sống? Mất quân bình xã hội, đó là cái họa.
Tôi chủ trương lấy Phật giáo đời Trần làm căn bản tu, để Phật tử không quan niệm lầm, ở tại gia tu như các vị vua còn được thì người cư sĩ ở nhà vừa lo cho gia đình vừa tu có hại gì đâu? Chỉ khéo biết tu là có kết quả. Đó là lý do tôi dẫn cho quí vị thấy chủ trương khôi phục Thiền đời Trần của tôi. Vua quan đời Trần hiểu Phật Pháp thâm sâu, tu thiền được kết quả tốt, đồng thời đời Trần lập ra phái thiền Trúc Lâm Yên Tử thuần tuý Việt Nam, nên chúng tôi lấy thiền đời Trần làm chỗ tựa. Như vậy, nếu chúng ta hiểu thấu điều nầy thì sự tu hành rất là tốt đẹp. Một ông vua lúc gần chết vui vẻ không buồn, không lưu luyến lo sợ là do khi sống có ý nghĩa an vui. Trong cuộc sống có gì hơn là sống an vui chết tự tại. Đây là điều thế gian mơ ước, mà chúng ta thực hiện được thì quá quí. Thế nên tôi mới lấy đó làm điều tiêu chuẩn hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử tu. Quí vị hiểu rõ điều nầy cho tôi.
Hôm nay sẵn có Tăng Ni và Phật tử đông, thời giờ còn rộng, tôi nói rộng hơn một chút về kinh nghiệm tu hành. Chúng ta ai cũng biết chúng ta tu thiền của đạo Phật. Vậy tu thế nào mới đúng? Tu thế nào mới khỏi bệnh? Tu thế nào mới khỏi rơi vào đường tà? Đây là chỗ quan trọng mà tôi muốn chỉ cho quí vị biết rõ. Nếu tu thiền mà không nắm vững đường lối, không thấy rõ cái nào tà cái nào chánh, không biết rõ cái nhân sanh ra bệnh hoạn thì khi tu dễ bị chướng ngại. Trước hết tôi dẫn Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói về ngũ ấm ma. Ma là tướng không thật làm chướng ngại việc tiến tu. Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy người tu phá được một ấm thì xảy ra mười hiện tượng gọi là ma. Trong những hiện tượng đó có những hiện tượng rất hấp dẫn, nếu biết thì không bị chướng ngại, nếu không biết thì thích thú say mê rơi vào đường ma. Năm mươi thứ ma trong Kinh Lăng Nghiêm ở đây tôi không nói hết chỉ nói ý một câu để làm nguyên tắc tu hành để khỏi rơi vào đường tà. Hồi tôi còn học thầy tôi bắt học thuộc lòng câu:
Nhược khởi thánh giải, tức lạc quần tà,
Bất khởi thánh tâm, tức thiện cảnh giới.
Nghĩa là ngồi tu thấy Phật, thấy Bồ tát, thấy hào quang, thấy đủ thứ… dù có uy quyền, đẹp lạ thế mấy nếu không cho cái thấy của mình là thánh thì tốt. Nếu cho rằng mình thấy như thế là chứng đạo nên Phật, Bồ tát tới chứng minh, đó là rơi vào quần tà. Còn thấy mà không khởi niệm, không theo, biết đó là giả tướng do tự tâm hiện ra thì là cảnh giới tốt. Cũng một cảnh giới mà tưởng cảnh giới đó là hiện tượng mình chứng đạo thì bị rơi vào đường tà chướng đạo không tiến được. Còn nếu thấy mà không khởi niệm không dính mắc, biết đó là tự tâm hiện, là cảnh giới lành thì không chướng đạo. Thế nên công thức căn bản của người tu thiền theo kimh Lăng Nghiêm dạy thì khi dụng công tu nội tâm có sự dằn ép nên phát ra những tướng lạ, hoặc thấy ma, hoặc thấy Phật, thấy Bồ tát… Thấy tất cả những tướng lạ đều biết là do tâm dằn ép nó hiện, chớ không phải ma thật, không phải Phật, Bồ tát thật. Biết như vậy thì thấy Phật không mừng, thấy ma không sợ, nên không động tâm, không bệnh. Còn nếu thấy Phật thì mừng, thấy ma thì sợ, là tâm còn dao động thì bệnh. Như vậy ngồi thiền thấy bất cứ cảnh giới gì, cho đến thấy Phật hay thấy ma quỉ đều biết tâm yên lặng nên mọi cảnh hiện, cảnh đó là do tâm hiện chớ khônh phải ở ngoài đến. Phật đâu có rảnh mà đi xoa đầu mình, ma đâu có mà lại nhát mình. Biết rõ như vậy thì không có gì đánh lừa mình được và không bao giờ có hại.
Cảnh tốt hiện, biết là công phu tu của mình có khá nên cảnh tốt mới hiện, chớ không phải ở bên ngoài đến. Đó là trường hợp thứ nhất.
Trường hợp thứ hai là nghe âm thanh. Khi ngồi thiền cũng do tâm dằn ép nên có nghe những tiếng lạ của người hoặc của thần thánh nói những câu đạo đức… Nghe những âm thanh nầy là do công phu của mình khá nên mới có. Chớ không có Phật Thánh hay người đến nói cho mình nghe, mà cũng không phải ma quỉ ở ngoài tới dụ dỗ mình. Vì tâm mình yên tỉnh quá nên có những hiện tượng lạ. Hiện tượng lạ là từ tâm mình hiện. Nghe âm thanh lạ, mình biết tự tâm mình hiện, không chú ý, không theo thì không bị chướng đạo, không bị bệnh. Ngày xưa có một người huynh đệ tu thiền, tôi tới thăm, nói chuyện với ông mà ông không nói, ông cứ nhìn trên trời trên mây miệng lảm nhảm hoài. Tôi hỏi:
– Tôi nói chuyện với thầy sao thầy không nói, mà nói chuyện với ai ở đâu vậy?
Ông nói:
– Kìa! kìa! Người ta nói chuyện với tôi kìa, để tôi nói chuyện với họ.
Người như vậy là điên rồi. Điên vì nghe những âm thanh lạ, tưởng người ta nói với mình, rồi cứ lảm nhảm đối đáp qua lại riết thành điên. Đang đi đường cũng ngó trời ngó mây nói khơi khơi một mình. Đó là hiện tượng điên. Thế nên khi tu nghe những âm thanh lạ, biết nó do tâm dằn ép mà phát ra, nó không thật, nên không bệnh, không chướng đạo.Chỗ nầy ngoại đạo bảo lắng nghe tiếng Phạm Thiên hay tiếng thần linh, nhưng đạo Phật thì qui về nội tâm , không hướng ra ngoài, vì hướng ra ngoài tìm cầu là ngoại đạo. Người tu thiền là qui về tự tâm, chớ không hướng ra ngoài. Câu tiêu chuẩn của nhà thiền là “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Nghĩa là xoay lại để thấy rõ mình là bổn phận chính của việc tu hành. Lấy câu nầy làm tiêu chuẩn thì tu không bao giờ lạc, không bao giờ sai. Nếu không hiểu rõ câu nầy thì tu dễ lạc dễ sai lắm.
Trường hợp thứ ba, là có một thứ ma đặc biệt là mình không trực tiếp thấy hay trực tiếp nghe nói, mà nó tựa vào người nào đó, rồi người đó tới nói chuyện thiên cơ hoặc hiện thần thông, phóng hào quang… người ham tu thấy nghe mấy việc nầy dễ tin lắm, dễ tin thì cũng dễ lạc lắm. Thế nên người tu thiền, có ai tới nói chuyện quá khứ vị lai, hay tự xưng là Bồ tát, là Phật cũng đừng quan tâm cũng đừng thấy là quan trọng. Vì chúng ta tu Phật lấy giới, định, tuệ làm căn bản giải thoát. Giới là đạo đức, định là thiền định, tâm không tán loạn, tuệ là trí tuệ sáng suốt thấy rõ các pháp đúng như thật. Người tu lấy đạo đức, tâm an định, trí tuệ sáng làm gốc, thế nên dù cho thần thánh có dựa hay nói thiên cơ đều là chuyện bên ngoài, không phải chỗ mình nhắm. Nhớ ai tới hiện thần thông hay nói gì nói mặc họ, không quan trọng, chúng ta thấy nghe chỉ cười thôi thì không ma nào dụ mình nỗi. Còn nếu họ tới tự xưng là thần thánh và nói thầy có cần tiền không? Tôi hóa ra tiền cho thầy coi. Họ liền hóa ra năm bảy trăm ngàn. Mình thấy thích quá tin họ là thần thánh thì lạc vào đường ma. Vì ma có mưu thần chước quỉ mình không thể lường nỗi. Như vậy, dù ai có linh thiêng mấy chúng ta cũng không nghe và không tin.
Tóm lại, giới, định, tuệ là căn bản của người tu thiền. Nếu người tu mà phạm giới thì tâm rối loạn, tâm rối loạn thì tu không định. Thế nên tu lấy giới làm đầu, kế đó là định, tọa thiền là buông vọng tưởng cho tâm an định. Nhưng có nhiều người tọa thiền vọng tưởng lặng hết lại hoảng hốt cho là mất mình nên sợ thì vọng tưởng khởi động trở lại. Như vậy, tu cốt được định, vừa được định thì hoảng hốt nên mất định, loạn trở lại. Đó là lầm lẫn. Và, khi tâm an định thì trí tuệ phát sanh, trí nầy là vô sư trí của chính mình. Trí hữu sư là trí do học ở thầy bạn ở sách vở bên ngoài mà có. Còn trí vô sư muốn khai phát thì phải lóng lặng vọng tưởng tâm an định trí vô sư mới hiện. Giả sử chúng ta đọc kinh, có nhiều câu không hiểu, chúng ta xếp lại để đó. Một hôm chúng ta ngồi yên tâm thanh tịnh bỗng dưng nhớ lại nghĩa lý sáng ra một cách rành rẽ, không có ai chỉ dạy hết. Đó là trí vô sư hiện, nên thấu suốt nghĩa lý rõ ràng. Trí vô sư hiện là do tâm an định tự sáng, chớ không nhờ ai giúp. Điều nầy quí vị tu từ từ sẽ thấy rõ, tôi có nói nhiều quí vị cũng khó tin.
Hồi tôi đi ngoại quốc một trăm ngày, mỗi chỗ đi qua là phải giảng một bài. Chẳng lẽ giảng đề tài nầy ở chùa nầy qua chùa kia giảng lại, người nghe thấy cũ mèm vì họ đã ghi âm rồi. Vì vậy mà phải giảng đề tài mới, giảng cả trăm ngày như vậy đề tài đâu mà giảng và làm sao soạn cho kịp? Vã lại đi như vậy làm sao đem theo tài liệu? Thôi thì làm gì thì làm, khuya ba giờ thức dậy ngồi thiền, ngồi xong, hỏi “Mai giảng đề tài gì đây?” Liền có đề tài để giảng. Thành ra đi đâu cũng có đề tài mới để giảng hết, không cần phải soạn, chỉ ngồi yên nhớ lại rồi đem ra giảng. Đó là chuyện nhỏ vô sư trí hiện. Còn những chuyện lớn không phải là không có. Chỗ nầy tôi đã kinh nghiệm qua rồi, không một chút nghi ngờ.
Khi tôi ra ngoài Bắc nói chuyện ở viện nghiên cứu Hán Nôm. Câu đầu tiên tôi nói quí vị là học giả, tôi là hành giả, hành giả khác với học giả. Tôi ví dụ có một người được cha trao cho hòn ngọc quí của tổ tiên cách mấy thế kỷ để lại. Bây giờ anh nắm được hòn ngọc quí trong tay thì có những người ở ngoài nghiên cứu sử sách mà không thấy có bằng cớ không đủ lý lẽ để tin nhà anh có hòn ngọc quí nên họ nghi ngờ thế nầy thế kia. Nhưng anh thì không nghi ngờ gì cả, anh thấy rõ ràng nhà anh có hòn ngọc quí tổ tiên anh truyền tới đời anh. Những người nghi ngờ tra cứu sử sách để xác chứng nhà anh có hòn ngọc quí dụ cho học giả. Còn anh đang nắm hòn ngọc quí trong tay không nghi ngờ dụ cho hành giả. Như vậy hành giả là người giáp mặt thấy rõ ràng rồi mới tin mới nói, chớ không phải do tưởng tượng hay nghiên cứu mà nói. Đối với vô sư trí, tôi không có tí nào nghi ngờ hết. Vì vậy các nhà bác học quả tang là các vị đó sử dụng được vô sư trí. Khi họ nghiên cứu một vấn đề tới chỗ bí họ tập trung tinh thần nghiền ngẫm quên hết mọi việc chung quanh, bỗng một hôm bừng sáng, họ la lên như người điên, đó là công trình nghiên cứu thành công. Như vậy cái bừng sáng thấy suốt một vấn đề mà từ trước họ thắc mắc do ai dạy? Chính từ nơi họ phát ra, không phải vô sư trí là gì? Người tu thiền cũng vậy, khi bặt hết mọi tạp niệm, tự tâm phát sáng. Đức Phật lúc ngồi thiền dưới cội bồ đề khi tâm thanh tịnh Ngài nhớ lại vô số kiếp về trước, thấy mỗi kiếp sanh ra sanh hoạt như thế nào cha mẹ là ai v.v. Sau đó Ngài thấy rõ con người chết đi theo nghiệp thiện hay ác mà sanh thân thọ qủa báo khổ hay vui v.v. Như vậy do tâm thanh tịnh mà trí tuệ phát sáng. Trí tuệ nầy là vô sư trí. Vô sư trí ai cũng có sẵn, chớ không phải riêng Phật mới có, chúng ta không có. Tại vì tâm chúng ta chưa an định nên vô sư trí chưa hiện. Thế nên tôi phải hướng dẫn quí vị ngồi thiền, dùng phương tiện tọa thiền để cho tâm an định, khi tâm an định rồi thì trí tuệ sáng. Thiền là một phương tiện quay lại trí tuệ sẵn có của mình gọi là Phật tánh hay tánh giác. Thiền là như vậy, rất đơn giản. Hiểu như vậy thì tu không bao giờ sai lầm, ngược lại thì tu dễ lệch lạc. Đó là điều căn bản mà Tăng Ni và Phật tử phải hiểu, từ đây về sau đừng có lầm lẫn, tu đúng thì không bao giờ có hại mà được lợi ích lớn.
[ Quay lại ]