GS Trần Ngọc Thêm: Hiểu đúng đề xuất bỏ khẩu hiệu Tiên học lễ, hậu học văn
–
Thứ sáu, 26/11/2021 07:07 (GMT+7)
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng, ở xã hội hiện nay phẩm chất và năng lực đều quan trọng. Trong đó, đức phải có trước tài nhưng đó chỉ là điều kiện cần, là cái nền để trên đó phát triển và bồi dưỡng tài năng. Chúng ta cần thay đổi quan niệm về “trồng người”, về “Tiên học lễ, hậu học văn” để đào tạo ra con người toàn diện, chủ động, khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo.
Theo GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, cần thay đổi quan niệm về “trồng người”, về “Tiên học lễ, hậu học văn” để đào tạo ra con người toàn diện, chủ động, khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo. Ảnh: Hải Nguyễn
Đề xuất không nên tiếp tục sử dụng khái niệm “trồng người” và khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” được GS.TSKH Trần Ngọc Thêm – giáo sư về văn hóa học, đặc biệt chuyên sâu về văn hóa Việt Nam – nêu trong tham luận phát biểu tại Hội thảo giáo dục 2021 với chủ đề “Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo” do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội tổ chức ngày 21.11.
Đề xuất này ngay lập tức gây chú ý khi những quan niệm này vốn đã trở thành khẩu hiệu quen thuộc, được xem là nét đẹp của truyền thống văn hóa Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về đề xuất này, Báo Lao Động đã có cuộc trao đổi với GS Trần Ngọc Thêm.
Thưa GS Trần Ngọc Thêm, gần đây ông đã đưa ra quan điểm cần chấm dứt sử dụng khái niệm “trồng người” để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo. Xin ông chia sẻ sâu hơn về quan điểm này.
– Sở dĩ tôi đưa ra đề nghị trên bởi đây là khái niệm hội tụ ở mức độ rất đậm đặc tính thụ động của người Việt Nam. Văn hoá Việt Nam hình thành trên kinh tế trồng lúa nước là một nền văn hoá âm tính, trong đó con người có đặc điểm là thường luôn thụ động. Tính thụ động này của văn hóa thể hiện rất rõ qua cách tiếp nhận và sử dụng khái niệm “trồng người”.
Khái niệm “trồng người” lần đầu tiên được nêu ra trong bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh với giáo viên phổ thông ngày 13.9.1958. Bác nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”. Từ đó trở đi, câu nói này, đặc biệt là cụm từ “trồng người” được nhắc lại rất nhiều.
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm.
Thực ra ý của câu này được Bác mượn từ lời của Quản Trọng – tể tướng nước Tề thời Xuân Thu. Sách “Quản Tử” có viết: “Kế một năm chi bằng trồng lúa, kế mười năm chi bằng trồng cây, kế trọn đời chi bằng trồng người. Trồng một gặt một ấy là lúa. Trồng một gặt mười ấy là cây. Trồng một gặt trăm ấy là người”. Vào thời phong kiến xưa thì cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều coi con người là đối tượng cần được giáo hoá; con người được coi như cái cây, hoàn toàn lệ thuộc vào môi trường một cách thụ động: Trồng ở đất này thì cho trái ngọt nhưng trồng sang đất khác có thể lại cho trái chua.
Tôi có thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không có chủ trương giáo dục một cách thụ động và “trồng người” không phải là hình ảnh thường trực trong tư duy của Bác. Bởi lẽ trong suốt 15 cuốn của bộ Hồ Chí Minh toàn tập, cụm từ “trồng người” chỉ được Bác dùng duy nhất một lần, trong khi cụm từ “trồng cây” được Bác dùng rất nhiều lần. Sự phổ biến của khái niệm “trồng người” không xuất phát từ triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh, mà nó nằm sẵn trong tư duy giáo dục của người Việt Nam.
Là một dân tộc làm nông nghiệp, khi gặp hình ảnh “trồng người” do Bác nói ra, ai cũng cảm thấy thân thiết gần gũi đến mức dễ dàng chấp nhận và say mê sử dụng nó một cách hoàn toàn tự nhiên. Vì vậy, mỗi năm vào dịp 20.11, có hàng mấy chục bài viết tôn vinh sự nghiệp “trồng người”, hàng triệu lời chúc các thầy cô đạt nhiều thành công trong sự nghiệp “trồng người”. Nhưng con người không phải là cái cây, “trồng người” cũng không phải là hình ảnh thường trực trong tư duy giáo dục của Bác, do đó, tôi cho rằng không có lí do để duy trì hình ảnh này.
Còn với câu khẩu hiệu đã trở nên rất quen thuộc là “Tiên học lễ, hậu học văn” thì sao, thưa GS Trần Ngọc Thêm? Tại sao ông lại đề xuất bỏ câu này?
– Chế độ phong kiến xưa có mục tiêu xây dựng một xã hội ổn định nhằm “trị quốc an dân” nên trọng Lễ trở thành một nguyên lý cơ bản trong triết lý giáo dục ở những quốc gia chịu ảnh hưởng của Nho giáo như Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản.
Học Lễ là để biết được vị trí của mình trong hệ thống thứ bậc, tôn ti. Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử dạy con trai Bá Ngư: “Không học Lễ thì không biết chỗ đứng ở đời, không lập thân được”. Lễ tạo nên khuôn phép để ràng buộc con người.
Cũng trong sách Luận ngữ, Khổng Tử nói: “Dùng Đạo để dẫn dắt dân, dùng Lễ để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà theo đường chính”. Ở một chỗ khác, Khổng Tử còn nói: “Con em ở nhà thì hiếu thảo, ra ngoài thì kính nhường, thận trọng và thành thực, yêu thương khắp mọi người, gần gũi người nhân đức. Làm những việc trên rồi mà còn dư sức thì học văn”. Có nghĩa là học Lễ là chính, học Văn là phụ (còn dư sức thì học văn).
Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” được treo trong nhiều lớp học. Ảnh: Huyên Nguyễn
Nguyên lý giáo dục trọng Lễ do đó mà có sự thống nhất cao độ với mục tiêu đào tạo người thừa hành, người công cụ và sứ mệnh phục vụ công cuộc trị quốc an dân của chính quyền quân chủ phong kiến. Nó coi việc đòi hỏi người dưới phải phục tùng, giữ lễ với người trên là yêu cầu số một.
Như vậy, “Tiên học lễ” đòi hỏi người dưới tôn trọng người trên trong quan hệ một chiều. Trong khi đó, sự sáng tạo và phản biện chỉ tồn tại được trong mối quan hệ hai chiều: Người dưới và người trên phải tôn trọng lẫn nhau thì mới có thể trao đổi một cách dân chủ, bình đẳng được.
Không có dân chủ trong giáo dục thì không thể có sáng tạo và không thể có một xã hội phát triển. Chừng nào còn đề cao chữ Lễ thì người học còn bị trói buộc trong quan hệ kính trọng một chiều từ dưới lên trên. Chấm dứt sử dụng khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” sẽ là điều kiện cần để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo.
Quan niệm “Tiên học lễ” không còn phù hợp với xã hội ngày nay, khi mà chúng ta đang nỗ lực xây dựng một xã hội hiện đại, phát triển và hội nhập, nơi con người cần tôn trọng lẫn nhau, không chỉ người dưới tôn trọng người trên, mà người trên cũng phải tôn trọng người dưới; hai bên đều phải nỗ lực để xứng đáng nhận được sự tôn trọng từ nhau. Vì vậy, tôi đề nghị không dùng câu khẩu hiệu này nữa.
Quan điểm của GS hiện nhận được nhiều sự quan tâm, thậm chí có những tranh luận về việc nếu không học lễ đầu tiên thì sẽ học gì? Và việc chấm dứt quan niệm “Tiên học lễ, hậu học văn” liệu có dẫn đến việc người học sẽ bỏ qua lễ nghĩa, đạo đức hay không, vì gần đây xã hội luôn trăn trở vì sự thiếu lễ nghĩa của không ít giới trẻ?
– Tôi nghĩ rằng, nói như vậy là đã hiểu sai ý kiến của tôi. Tôi không nói là bỏ dạy Lễ, bỏ học Lễ theo cách hiểu là phẩm chất đạo đức; mà chỉ là bỏ quan niệm và cách nói “Tiên học lễ, hậu học văn” theo cách hiểu là phục tùng một chiều.
Chuẩn mực giáo dục của con người xưa nay luôn luôn phải bao gồm hai vế là phẩm chất và năng lực, không thể bỏ mặt nào. Nhưng với xã hội hiện nay, việc đặt vấn đề học Lễ là quá hẹp, bởi Lễ chỉ là phần nhỏ của của phẩm chất, của đạo đức mà thôi. Như vậy, trước hết mối quan hệ giữa Lễ và Văn phải được thay bằng quan hệ giữa phẩm chất và năng lực, hay giữa đức và tài.
Tiếng Việt của chúng ta giàu đẹp và phong phú, nên cần đường hoàng diễn đạt một cách chính danh; không có lý do gì để giữ lại lối nói cũ nhưng lại hiểu theo nghĩa mới (kiểu “bình cũ rượu mới”). Đây chính là một trong những lý do giải thích vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh không một lần nào dùng hình ảnh và cách nói này.
Câu hỏi “Nếu không học lễ đầu tiên thì sẽ học gì?” cần thay bằng câu hỏi “trong quan hệ giữa hai vế phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài, cái nào quan trọng hơn?”. Câu trả lời là cả hai đều quan trọng ngang nhau, song tùy từng hoàn cảnh, từng giai đoạn mà đặt cái nào lên trước.
Sau năm 1945, trong 15 tập của bộ Hồ Chí Minh toàn tập, Bác Hồ có 14 lần nhắc tới tài và đức, trong đó 12 lần nói tài trước, đức sau. Điều này chắc chắn không phải là ngẫu nhiên. Người có đức thì chưa chắc đã có tài mà đức thì có thể suy thoái, biến chất nhưng người thực sự có tài, mà ta hay gọi là nhân tài, thì thường đã có đức rồi.
Một nguồn nhân lực chỉ coi trọng đức thì giỏi lắm là chỉ có thể giữ được cho xã hội ổn định chứ không thể giúp cho xã hội phát triển. Muốn xây dựng một xã hội phát triển thì phải có những con người sáng tạo, để sáng tạo thì phải chủ động và có tư duy phản biện.
Mà đã “Tiên học lễ” rồi thì con người sẽ trở nên thụ động, không còn tư duy phản biện nữa. Các nhà cách mạng tiền bối của chúng ta phần nhiều từ cái lò Nho học đi ra, nếu họ nhất nhất tuân thủ lễ nghĩa, nhất nhất dễ bảo, vâng lời thì làm sao có được cuộc cách mạng đổi đời?
Điều mà xã hội hiện đang quan tâm là liệu việc chấm dứt quan niệm “Tiên học lễ, hậu học văn” có dẫn đến việc người học sẽ bỏ qua lễ nghĩa, đạo đức, trong bối cảnh các giá trị văn hóa đang có chiều đi xuống hay không là một sự lo lắng đáng được quan tâm.
Song có điều là lo lắng này đã được xây dựng trên một giả định sai lầm là sự đồng nhất quan niệm “Tiên học lễ” với việc xã hội có nền nếp kỷ cương. Nhưng thử hỏi việc đề cao “Tiên học lễ” như lâu nay ta đã làm chả lẽ vẫn còn chưa đủ? Vậy mà tại sao trong học đường vẫn tiếp diễn tình trạng chuỗi sự cố giáo dục? Tại sao trong xã hội vẫn có một bộ phận không nhỏ cán bộ suy thoái? Còn ở các nước phương Tây nói riêng và các nước phát triển nói chung không có quan niệm “Tiên học lễ” mà sao trong học đường của họ không có tình trạng chuỗi sự cố giáo dục như ta, trong xã hội không có tình trạng công chức suy thoái biến chất như ta?
Thực ra, vấn đề chính trong nỗi lo lắng về sự xuống cấp của văn hóa trong xã hội không phải ở chuyện “Tiên học lễ” mà là ở việc thượng tôn pháp luật. Xã hội phương Tây không có “Tiên học lễ” mà mọi việc vẫn ổn là vì mọi người không có ai đứng ngoài, đứng trên pháp luật. Một khi pháp luật được thực thi luôn luôn và trọn vẹn, không có vùng cấm, không có ngoại lệ; mọi quan hệ đều chính danh thì “Tiên học lễ” sẽ trở nên thừa.
Hiện nay, những quan niệm này đã gắn bó lâu đời với người dân Việt Nam và để thay đổi là không dễ dàng. Gần đây, ngành Giáo dục cũng đã đổi mới chương trình dạy và học, đề cập tới việc bỏ lối dạy một chiều, bỏ văn mẫu, bệnh thành tích… Liệu đây có phải là một quá trình thay đổi tư duy hay không, thưa GS?
– Để thay đổi quan niệm đã gắn bó lâu đời với người dân Việt là một điều không dễ dàng, khi mà trong giáo dục và trong xã hội, tính thụ động thể hiện ở mọi bình diện, mọi khía cạnh: con cái thụ động trong quan hệ với cha mẹ; người học thụ động trong quan hệ với người dạy; người dạy thụ động trong quan hệ với nhà trường; nhà trường thụ động trong quan hệ với bộ máy quản lý giáo dục; cán bộ nhân viên thụ động trong quan hệ với cấp trên; mỗi người thụ động trong quan hệ với dư luận, sợ bị số đông “ném đá”…
Việc đổi mới giáo dục đúng là một quá trình thay đổi tư duy. Nhưng việc bỏ lối dạy một chiều, bỏ văn mẫu, chống bệnh thành tích… phải chăng vẫn còn dừng lại ở những lời hô hào, kêu gọi? Sách giáo khoa soạn theo chương trình mới in chưa ráo mực, lập tức có bộ 100 Đề thi mới nhất cho môn Ngữ văn lớp 6 năm học 2021-2022 với đủ đáp án, được biên soạn theo các bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Cánh diều, Chân trời sáng tạo ra đời.
Các thầy cô giáo vẫn kêu than rằng “mẫu kế hoạch bài dạy theo công văn 5512 (của Bộ GDĐT) quá dài dòng vô bổ, nhiều thầy cô chỉ soạn đối phó”. Việc xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa vẫn làm theo kiểu cuốn chiếu, đối phó. Việc biên soạn sách giáo khoa ở mọi cấp, từ phổ thông đến đại học, vẫn phổ biến yêu cầu phải ngắn gọn là để đáp ứng nhu cầu học thuộc lòng. Mọi đề thi từ phổ thông đến đại học đều vẫn phải có đáp án sẵn đính kèm. Việc chấm thi theo đáp án giết chết tư duy sáng tạo của cả trò lẫn các thầy cô giáo. Mọi sáng tạo độc đáo khác với đáp án buộc người chấm phải cho điểm kém và buộc người học phải nhận điểm kém.
Để phát triển tư duy phản biện, thực hành dân chủ trong giáo dục đòi hỏi người trên (cha mẹ, thầy cô, nhà quản lý…) phải vươn lên rất nhiều, nỗ lực rất nhiều. Có thể nói không ngoa rằng chính những “người trên” lo lắng không theo kịp con cái, không theo kịp người học là những người phản đối chủ trương từ bỏ quan niệm “Tiên học lễ” quyết liệt nhất, là những người muốn duy trì quan niệm “Gọi dạ, bảo vâng [là] lễ phép ngoan nhất nhà” nhất.
Hiện nay, những quan niệm về “trồng người”, về “Tiên học lễ, hậu học văn” đã gắn bó lâu đời với người dân Việt Nam và để thay đổi là không dễ dàng.
Đã đến lúc cần hiểu rằng tri thức bây giờ, người học có thể tự tìm ở mọi nơi, thậm chí các em có thể tìm nhanh hơn người dạy. Và hơn nữa, mọi tri thức không phải lúc nào cũng đúng, ngay cả những chân lý mà các nhà khoa học tiên phong đã nêu ra. Vì vậy, vấn đề không phải ở chỗ truyền thụ kiến thức cho người học, không phải ở việc “chở đò” đưa học trò qua sông, mà là hướng dẫn cho học trò tự đóng thuyền, tự làm bè, tự tìm mọi cách qua sông. Cần phải thay đổi tư duy từ dạy kiến thức, học kiến thức sang dạy phương pháp, học phương pháp. Có hệ thống phương pháp tốt thì sẽ dễ dàng thích nghi với mọi môi trường và sự biến đổi.
Chúng ta cần phải có lộ trình và đồng bộ để thực hiện khát vọng xây dựng xã hội phát triển mới. Để hướng đến một nền giáo dục có hiệu quả thì cần thay đổi rất nhiều điều. Những việc gần đây chúng ta làm như xây dựng chương trình tổng thể, thay đổi sách giáo khoa là đã cố gắng rất nhiều nhưng chưa đủ.
– Xin cảm ơn những chia sẻ của GS Trần Ngọc Thêm!