Đại Phạm Thiên

GN – Bài viết này chỉ nói đến vị Đại Phạm thiên (Mahābrahmā) trong kinh điển Tipiṭaka của Phật giáo Theravāda. Mục đích là để người Phật tử nhận thức sai lầm trong việc thờ cúng một tín ngưỡng khác đang hòa trộn vào Phật giáo; và hơn hết là mong mọi người quay về với bản vị Đại Phạm thiên, đúng theo tinh thần Phật giáo.

phamthien.jpg
Phạm thiên Sahampati thỉnh cầu Thế Tôn thuyết pháp

Theo quan niệm của Hindu giáo, Phạm thiên hay Đại Phạm thiên là vị thần sáng tạo của vũ trụ này, giống như Thượng đế hay Sáng tạo chủ. Vị thần Brahmā là một trong ba vị thần nổi tiếng của đạo Hindu. Brahmā là cha của Manu, con người đầu tiên trên thế gian này và từ đó loài người được sinh ra. Do đó, Phạm thiên được tôn thờ như là đấng Sáng tạo, sinh ra loài người. Hình tượng Phạm thiên trong Hindu giáo luôn là một vị thần có bốn mặt và bốn cánh tay. Bốn mặt chính là tượng trưng cho bốn bộ Veda (1) và bốn cánh tay đại diện cho bốn hướng chính (Đông, Tây, Nam, Bắc). Không giống như nhiều vị thần Hindu khác, thần Brahmā không mang bất kỳ vũ khí nào. Trong tín ngưỡng của người Thái, hình tượng thần Brahmā  với bốn mặt và tám tay.

Riêng về Phật giáo, Phạm thiên là vị đã chứng đắc được các tầng thiền định, nếu không bị hoại thiền, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được tái sanh lên các tầng trời Sắc giới tương ứng với tầng thiền mình đã chứng đắc.

Theo Vũ trụ quan Phật giáo, thế giới sinh diệt theo luật Nhân quả, không do đấng nào sáng tạo ra cả. Và Brahmā  chỉ là vị Đại thiên thần được sinh ra trước hết trong một chu kỳ thế giới này, nên tưởng rằng mình là sáng tạo thế giới, là chủ thế giới, nhưng thực ra cũng chỉ là một chúng sinh, dù cao quý hơn hẳn nhưng cũng không phải vĩnh cửu, không phải Thượng đế. Brahmā cũng nằm trong vòng sinh tử luân hồi, cũng chịu luật Nhân quả chi phối, có sinh và cũng có diệt. Vũ trụ này có sinh rồi cũng có diệt, và Brahmā cũng thế.

Chính trong kinh Phạm võng, Đức Thế Tôn đã kể lại rằng, khi thế giới này tiêu hoại xong, một thế giới mới mẻ được tạo thành và lúc đó trên tầng Phạm thiên giới có một vị Phạm thiên xuất hiện trước tiên, sống một mình tại đây, vị ấy được gọi là Đại Phạm thiên. Vì sanh ra trước nhất nên vị ấy nghĩ rằng: “Ta là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Những loài hữu tình ấy do chính ta sanh ra”(2).  Vị Phạm thiên đầu tiên này lại có được thọ mạng lâu dài hơn, diện mạo xinh đẹp tốt tướng hơn, uy quyền nhiều hơn những Phạm thiên khác. Rồi những Phạm thiên khác cũng nghĩ rằng chúng ta được tạo ra từ vị Phạm thiên này bởi vì chúng ta đến sau vị ấy.

Đại Phạm thiên cũng như chư Phạm thiên khác không hẳn phải là bậc Dự lưu hay đang trên đường đi đến giác ngộ mà sự tái sanh của họ tùy thuộc nhiều vào lòng tịnh tín đối với Phật, Pháp và Tăng(3). Không cần phải là đệ tử của Phật mới được sanh lên cõi Phạm thiên; có rất nhiều trường hợp ghi lại rằng các môn đệ của các ngoại đạo sư cũng được sanh lên cõi Phạm thiên nhờ theo giáo pháp của chư vị ấy, các vị ngoại đạo sư ấy được biết đến là: Sunettto, Mūgapakkha, Aranemi, Kuddālaka, Hatthipāla, Jotipāla(4).  Các kinh Bổn sanh có kể lại nhiều chuyện của các ẩn sĩ hành thiền quán, đắc thiền chứng và tái sanh lên cõi Phạm thiên. Một số Phạm thiên như Baka đã từng khởi lên tà kiến chấp rằng thế giới họ thường hằng; trong khi cũng như tất cả các thế giới khác, cõi Thiên sẽ bị biến hoại và đoạn diệt (5).

Có nhiều bản kinh Phật ghi lại sự hiện diện của Phạm thiên. Tuy nhiên, nổi tiếng và có sức quan trọng nhất là sự thỉnh cầu Đức Thế Tôn truyền bá giáo pháp của Phạm thiên Sahampati. Thuở ấy, sau khi trải qua bảy tuần lễ thọ hưởng sự an lạc của giải thoát trong khu vực gần Đại thọ Bồ-đề, Đức Phật rời khỏi chỗ ngồi dưới cội cây Rājāyatana và lại trở về cội cây si Ajapāla. Sau khi ngồi kiết-già dưới cội cây ấy trong cảnh vắng vẻ, Đức Phật đã khởi lên ý nghĩ: “Giáo pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm sâu huyền diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, chỉ còn bậc thiện trí mới thấu hiểu. Chúng sanh còn luyến ái trong nhục dục ngũ trần. Nếu Như Lai truyền dạy giáo pháp ấy, kẻ khác ắt không thể hiểu được. Thật là phí công vô ích”. Biết được ý nghĩ của Đức Thế Tôn, Phạm thiên Sahampati sợ rằng, nếu Đức Phật quyết định không đi truyền bá giáo pháp, và, vì chúng sanh không nghe được pháp diệt khổ thì thế gian sẽ bị tiêu vong nên đã xuất hiện và thỉnh nguyện Đức Thế Tôn truyền bá giáo pháp: “Bạch Đức Thế Tôn, cầu xin Ngài hãy truyền dạy giáo pháp! Có những chúng sanh bị ít nhiều cát bụi vướng trong mắt, nếu không được nghe giáo pháp của Phật sẽ bị trầm luân sa đọa. Nhưng họ cũng có thể ngộ được chân lý”(6).

Do lời thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati, Thế Tôn đã chấp nhận tuyên thuyết giáo pháp bất tử đến cho chúng sanh, những người hữu duyên nên tế độ. Và đây cũng là một trong những thường pháp của chư Phật. Trước khi Đức Thế Tôn thuyết pháp đầu tiên phải có vị Đại Phạm thiên thỉnh cầu(7). Lý giải nguyên nhân: Phạm thiên là một vị tôn quý tột bậc trong quan niệm Bà-la-môn, cả về phước đức, phẩm hạnh, quyền năng và trí tuệ, là vị vua cai quản cả cõi trời và cõi người. Vua cõi trời và cõi người mà còn biết cung kính Phật, thỉnh cầu Đức Thế Tôn thuyết pháp như thế thì chúng sinh sẽ nhận ra đâu là con đường chân chánh để quay về.

Trường hợp thân mẫu ngài Sāriputta, bà Sārī cũng vậy. Trước khi viên tịch, Tôn giả đã trở lại quê nhà để tế độ mẫu thân. Vào đêm cuối, chư vị Thiên vương, Thiên chủ, Phạm thiên lần lượt hiện xuống để kính lễ Tôn giả. Sau khi các vị Thiên chủ đã ra đi, thân mẫu vội vàng vào phòng của Tôn giả để hỏi thăm về những vị trời ấy. Tôn giả đã từ tốn giải thích đó là những vị trời nào, sự hộ pháp của họ ra sao, đã hầu hạ Đức Phật trong lúc Đản sanh, thưa thỉnh Đức Thế Tôn chuyển pháp luân lúc mới Thành đạo như thế nào… Nghe xong, bà vô cùng kính phục, không ngờ con của mình cao cả đến độ các vị trời cao quý, ngay cả đến Đại phạm thiên, Brahmā, vị trời cao cả nhất, tối thượng nhất mà cả xã hội cũng như bản thân bà luôn kính ngưỡng phụng thờ, cầu nguyện hàng trăm năm nay lại là đệ tử của Đức Thế Tôn. Bà liền phát khởi tín tâm, suy nghĩ: “Nếu oai lực của người con trai mình như thế thì oai lực vô biên của Đức Thế Tôn còn to lớn biết chừng nào!”. Bằng sự kính ngưỡng cao cả chưa từng có, đồng thời nghe xong bài pháp ngắn về công đức Phật, Pháp, Tăng của Tôn giả, toàn thể châu thân bà Sārī rúng động, tin sâu Tam bảo, hoan hỷ và an lạc phát sinh, chứng đắc quả vị Tu-đà-hoàn.

Trong sự kiện Đản sanh, khi Bồ-tát rời khỏi bụng mẹ, bốn vị Đại Phạm thiên, những bậc đã xa lìa phiền não, đón nhận Bồ-tát trong một tấm lưới vàng lúc Ngài sanh ra. Rồi họ đặt Ngài trước mặt hoàng hậu và nói rằng: “Hoàng hậu hãy hoan hỷ. Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân”(8).  Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại sự hiện diện của các vị Phạm thiên, Đại Phạm thiên trong kinh điển nhưng các vị ấy đều không bao giờ nhận mình là Thượng đế cả, thậm chí Phạm thiên Sahampati còn khuyến khích người nữ Bà-la-môn từ bỏ cúng tế Phạm thiên. Đó là trường hợp thân mẫu của Tôn giả Brahmadeva. Vào một sáng nọ, Tôn giả đi khất thực ngang nhà mẫu thân, nhưng bà đang lo chăm chú cúng tế Phạm thiên, thấy vậy Phạm thiên Sahampati hiện xuống và nói với bà rằng, vị xứng đáng để cúng dường chính là Tôn giả Brahmadeva(9).

Tóm lại, Đại Phạm thiên hay Phạm thiên nói chung, theo quan niệm của Phật giáo cũng chỉ là vị thiên có oai đức hơn chúng sanh cõi thấp hơn mà thôi; không phải là đấng Sáng tạo hay là Thượng đế sinh ra muôn loài. Đừng lầm lẫn vị Phạm thiên cao quý với đức lành tứ vô lượng tâm để rồi cầu xin, mong cứu rỗi, ban phước lành. Phật giáo không chủ trương cầu xin và cũng không ai cho nếu như chúng ta không tự làm. Vì thế, hãy tự mình cứu lấy bản thân mình chứ đừng mong cầu ai phù hộ, vì chính bản thân họ chưa chắc đã được hạnh phúc tuyệt đối.

Samādhipuñño Định Phúc

___________

Chú thích:

  Bốn bộ Veda: (1) Rig Veda: ca tụng các vị thần; (2) Sama Veda: thần chú trong nghi lễ; (3) Yayur Veda: những nghi lễ khác; và (4) Atharva Veda: giảng rộng về các bộ kinh kia.

2 D.i.19 (Brahmajālasutta).

3 VibhA.437f.

4 A.iii.371 (Dhammikasutta).

5 M.i.327 (Brahmanimantanikasutta).

6 M.i.169 (Ariyapariyesanāsutta)

7 BvA.298

8 D.ii.15 (Mahānidānasutta).

9 S.i.140 (Brahmadevasutta).

Rate this post