Lịch sử Quỳnh Phương

  1. Điều kiện tự nhiên

       Vị trí:

       Quỳnh Phương là phường ven biển “nơi đất chật, người đông” nằm phía Đông bắc thị xã Hoàng Mai. Trên tuyến đường tỉnh lộ 537b, điểm xuất phát từ thị trấn Hoàng Mai(1) đến xã Quỳnh Nghĩa. Với diện tích 345 ha. Dân số tính đến tháng 12 năm 2010 trên 15 ngàn người (tính đến tháng 12/2019 là gần 19000 người), sinh sống ở 11 khối.

       Phía Bắc giáp xã Quỳnh Lập có thời cùng chung một đơn vị hành chính được ngăn cách bởi cửa Cờn của dòng sông Mai. Phía Nam giáp với xã Quỳnh Liên. Phía Đông giáp biển với chiều dài gần 2,7km. Phía Tây giáp xã Quỳnh Dị được ngăn cách bởi dòng sông Mai Giang và cách thị trấn Hoàng Mai khoảng hơn 2km về phía Tây. Phía Tây nam giáp làng Ngọc Huy (thuộc xã Mai Hùng) xa xưa cùng cương vực địa giới.

       Với vị trí quan trọng về giao thông, cửa ngõ phía Bắc của huyện Quỳnh Lưu, Quỳnh Phương là điểm giao lưu, buôn bán, phát triển kinh tế, có vị trí chiến lược về công tác an ninh -quốc phòng ở vùng biển Đông bắc của huyện.

_lsqp1

         Địa hình – Đồi núi:

       Theo lịch sử địa chất, vùng Bãi Ngang Quỳnh Lưu (từ Phương Cần đến Phú Nghĩa) là giải đất cát cổ được hình thành từ hàng vạn năm.

       Thời kỳ đồ đá ở Quỳnh Văn, cách ngày nay khoảng 5.000 năm, vùng đồng bằng Quỳnh Lưu còn là một vịnh biển nước nông, dải cát Bãi Ngang là bờ phía đông của vịnh, có độ cao từ 3-5m so với mặt nước biển.

       Nhánh bắc sông Hoàng Mai chảy vòng quanh phía Tây làng đổ ra cửa biển ở phía Đông- Bắc, tạo nên hình dáng làng Phương Cần như một cù lao của cửa biển.

       Địa hình của xã nói chung bằng phẳng. Dãy núi Hùng Vương (dân thường gọi là núi Thằn Lằn) án ngự phía Đông. Núi cao khoảng 50m, dài hơn 1km, che chắn một phần gió bão từ biển đông vào.

       Núi bên bờ biển, cạnh cửa sông đã tạo nên cảnh non xanh nước biếc, sơn thuỷ hữu tình, tô thắm cảnh đẹp quê hương.

       Hói Vua ở bờ sông xóm Trại, rộng khoảng 10 mẫu. Đây là vết tích biển cổ. Xưa các loại cây ngập mặn như: sú vẹt, sác,… mọc um tùm, tạo môi trường sinh thái, chống sự tàn phá của sóng nước. Giờ đây nhân dân đã đắp đê bao tạo thành đầm nuôi các loài thuỷ, hải sản cho giá trị kinh tế cao.

       Địa hình phía Nam có một số vùng trũng khác, là vùng Tây nam Chùa Càn, giáp với làng Ngọc Huy. Nay đã được cải tạo thành cánh đồng muối, vùng xóm Hữu Nam xưa là lạch nước cửa Ngâm qua quá trình kiến tạo của thiên nhiên, nay cũng đã bị bồi đắp trở thành cánh đồng muối (xí nghiệp muối Vĩnh Ngọc).

  Đất đai, thổ nhưỡng:

Điều kiện địa chất và địa hình đã tạo nên hai vùng đất canh tác chủ yếu:

       Dọc theo bờ sông Mai các bãi sình lầy, từ đồng muối tới cửa biển dài khoảng 2km, rộng gần 1 km. Đây là loại đất phù sa sông, phủ lên nền đất cát cổ, dày hơn 1m, thích hợp với việc trồng các loại cây vườn, nhất là cây dừa của làng Phương Cần xưa nay. Vùng đất cát từ chân núi Hùng Vương, dọc bờ biển tới xóm Hữu Nam (nay là xóm 1 xã Quỳnh Liên), tuy được hình thành từ lâu đời nhưng đất đai khô cằn, vào mùa nắng nóng gió thổi cát bụi bay mù, mùa mưa đồng ruộng lại dễ bị xói mòn nên việc cải tạo và canh tác gặp nhiều khó khăn. Đất có thành phần đạm, lân, kali đều kém nên chỉ phù hợp trồng các loại cây phòng hộ ven biển như cây phi lao, bạch đàn v.v… từ xưa đến nay, nhân dân vẫn cải tạo trồng một số loại cây lương thực ngắn ngày như đậu, lạc, ngô, vừng,v.v… Một số diện tích khác gieo lúa trĩa vãi vào vụ mùa, trồng khoai lang vào vụ đông xuân.

       Khí hậu và thời tiết:

       Cũng như huyện Quỳnh Lưu, Quỳnh Phương nằm trong vùng khu vực nhiệt đới, lại ở miền biển nên chịu ảnh hưởng của gió biển. Mùa nóng thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch, mùa này thời tiết nóng nực nhiệt độ trung bình 300C, có ngày lên tới 40 – 410C. Từ tháng 5 đến tháng 9 thường có dông tố.

       Gió Tây nam (tức gió Lào), gió Lào thổi mạnh nhất từ tháng 6 đến tháng 8 dương lịch. Có đợt kéo dài đến chục ngày, đồng điền nứt nẻ, cây cối hoa màu khô héo.

       Dù ở miền biển nhưng do có dãy núi Hùng Vương chặn gió Lào lại làm cho khí hậu ở đây đã nóng lại càng nóng thêm, đây cũng là mùa mưa bão, mỗi năm ít nhất cũng có từ 2 đến 3 cơn bão từ biển đông tràn vào gây không ít thiệt hại cho đời sống nhân dân, nhất là nghề đi biển, nghề làm muối.

       Về mùa lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 dương lịch năm sau, gió mùa đông bắc nhiệt độ trung bình thường từ 18-230C, từ tháng 11, đến tháng 2 âm lịch có khi nhiệt độ xuống 7 – 80C thời tiết lạnh giá. Do tác động của vị trí và địa hình ven biển nên mưa phùn trong mùa đông ít và muộn hơn do ảnh hưởng của khí hậu đồng bằng Bắc Bộ v.v… Đặc biệt sông, biển bao quanh nên địa bàn xã phần nào mang tímh chất của khí hậu ốc đảo. 

          Sông ngòi – Cửa biển:

          Sông Hoàng Mai bắt nguồn từ rừng núi phía Tây- Nam của tỉnh Thanh Hoá, đổ ra huyện Nghĩa Đàn chảy qua huyện Quỳnh Lưu, bắt nguồn từ Bến Nghè, Quỳnh Thắng, Tân Thắng; sông có lưu vực khoảng 308km2, chiều dài khoảng 40 km, đoạn chảy qua huyện dài khoảng 24km, ngày nay ở thượng nguồn (Vực Mấu) có hồ chứa nước cung cấp cho cả vùng Bắc Quỳnh Lưu và một phần phía Tây Nam của huyện. Hồ Vực Mấu đã tạo ra môi trường sinh thái, cảnh quan, ngăn lũ lụt cho các xã ở vùng có sông chảy qua: Quỳnh Trang, Quỳnh Vinh, Mai Hùng, thị trấn Hoàng Mai, Quỳnh Dị, Quỳnh Lộc, Quỳnh Phương, đoạn tiếp giáp Quỳnh Lập – Quỳnh Phương tạo ra cửa biển Lạch Cờn, tương lai là bến cảng lớn, phục vụ cho công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.

Lạch Cờn, sông Mai có giá trị đối với làng về nhiều mặt: Quân sự, kinh tế, giao thông và tiềm năng du lịch đồng thời còn có Khe Son hay gọi là kênh Son ở phía bắc, nối từ một con sông ở Tỉnh Gia (Thanh Hoá) với kênh xước ở Cửa Cờn.

       Cửa Cờn tên chữ là Càn Hải  (có sách gọi là Cần Hải, còn có tên gọi thôn Cần Miếu) xã Hương Cần ở vào vị trí trung tâm của xã, do sông Hoàng Mai tạo ra, thuỷ triều lên xuống, lúc triều cường nước dâng rất xa. Là chốn sơn thuỷ hữu tình, Cửa Cờn vừa  hoành tráng vừa nên thơ, in đậm bao dấu ấn lịch sử, đã gợi nhiều tứ thơ cho khách làng thơ. Năm 1470, vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm quân vào phương Nam đánh giặc Chiêm Thành, khi thắng trận trở về nghỉ tại Cửa Càn, tức cảng Xước, nhà vua đã làm bài thơ:

          Triều đầu phiếm phiếm lục chu di,

          Cần Hải xuyên đầu tưởng đáo thì.

          Nhất thuỷ tụ hoàn thiên tạm hiểm.

Quân sơn thuỷ quải thạch bình nguy.

Phong đào cửu tỉnh Trần anh mộng

Hương hoả do lưu Thánh Nữ từ

Chiếp hải bình man, kim thịnh hội,

Tương dư khởi đãi lạc long quy.(1)

          Dịch nghĩa:

 

          Thuyền xanh lênh đênh lướt dưới ngọn thuỷ triều,

          Nghĩ tới cảnh tượng đầu sông Cần Hải.

Có dòng nước dồn về là thành trì thiên nhiên rất hiểm,

Dãy núi màu xanh biếc như bình phong đá rất nguy nga.

                              Sóng gió từ xưa đã làm ta sớm tỉnh giấc mộng Trần Anh Tông,

Khói hương còn lưu lại ở ngôi đền Thánh Nữ.

Ngại cảnh vượt bể bình man, nay đã sang hội thịnh vượng.

Đối với ta có đợi gì con quy nhà Lạc Long đâu!

 

          Tiếp đó Nguyễn Du lại viết bài:

          Giao vọng Càn Hải.

Mang mang hải thuỷ tiếp thiên xu(2),

Ẩn ước cô từ xuất tiểu chu (châu).

Cổ mộc hàn liên phù chử mộ,

Tình yên thanh dẫn hải môn thu.

Hoà thiên tướng tướng đan tâm tận,(3)

Phủ địa Quỳnh Nhai khối nhục vô(4).

Tiểu nhĩ Minh phi trường xuất tái,

Tỳ bà bôi tửu khuyến thiên vu(5)

Dịch nghĩa:

                                    Xa trông đền Cờn

 

Nước biển mênh mông tiếp bắc cực

Thấp thoáng thấy ngôi đền đứng lẻ loi giữa bãi cát nhỏ

Buổi chiều chòm cây cổ thụ lạnh lẽo liền với bến chim phù đậu,

Mùa thu, làn khói lúc trời lạnh mát dịu bay ra cửa biển.

Kêu trời, các bậc tướng văn, tướng võ dốc hết cả lòng son,

Vỗ đất ở Quỳnh Nhai không còn một ai là dòng giống nữa.

Đáng cười thay nàng Minh Phi ra ngoài cửa ải,

Gãy đàn tỳ bà, rót rượu mời chúa Thiền Vu.

Dịch thơ:

          Mặt nước mênh mông bể lẫn trời,

                   Ngôi đền thấp thoáng bãi ngoài khơi.

                   Bến phù chiều tới cây man mác,

                   Cửa bể thu dồn khói tả tơi.

                   Khanh tướng uổng bao lòng tiết nghĩa,

                   Quỳnh Nhai vùi khối thịt mồ côi!

                   Nực cười cho ả Minh Phi nhé,

                  Rượu chuốc đàn ngân nịnh chúa Hời(6)

                                                Phan Khắc Hoan và Lê Thước dịch.

          Điều kiện tự nhiên xã Phương Cần đã tạo những thuận lợi cho đời sống và hình thành các khu vực dân cư. Dù không thuận lợi để sản xuất nông nghiệp trồng các loại cây lương thực ngắn ngày nhưng vẫn phù hợp phát triển các loại cây vườn và trồng rừng phòng hộ ven biển.

          Tài nguyên thiên nhiên cũng hết sức đa dạng ngoài đất đai, nước biển, nước ngầm… còn có hệ thống thực vật phong phú.

          Nước biển là nguồn nguyên liệu để làm muối, tạo nên những cánh đồng muối với sản lượng lớn. Hiện đã và đang được nhân dân khai thác.

          Nơi đây có ba bề, bốn bên là nước mặn, nhưng nước ngầm (ở độ sâu 3m) vùng trung tâm làng và ven núi lại có độ ngọt cao được nhân dân khai thác dùng trong sinh hoạt và đời sống hàng ngày.

          Nguồn tài nguyên biển cũng rất phong phú gồm nhiều loài như: tôm, cua, mực, cá, ốc, ngao… Được nhân dân Phương Cần khai thác từ xưa đến nay và trở thành nguồn lợi chủ yếu của địa phương.

          Về thực vật tự nhiên, xưa trên núi Hùng Vương và các vùng ven sông các loài cây mọc um tùm.

       Thúc ước làng Phương Cần còn ghi lại:

“Núi đất, cây cổ mộc dầm hoà, phơi phới gió đưa mùi đức giáo”.

“Bến Giang kia, cánh phượng, bãi de chàm nhuộm cây xanh éo éo”…

      Tài nguyên thiên nhiên phong phú là điều kiện thuận lợi để khai thác và phát triển sản xuất. Từ bao đời, người dân nơi đây đã cần cù, chịu thương, chịu khó lao động để khai thác phục vụ nhu cầu cuộc sống hàng ngày và sản xuất. Trước đây do việc khai thác còn thiếu quy hoạch, bừa bãi nên một số tài nguyên đã cạn kiệt như rừng ngập mặn và cây rừng trên núi Hùng Vương đã làm ảnh hưởng tới môi trường sinh thái và phòng hộ. Ngày nay Đảng bộ và nhân dân dịa phương phải tốn nhiều thời gian, công sức và tiền của để phục hồi lại.

      Giao Thông:

      Quỳnh Phương là xã có nhiều loại đường giao thông đi qua, trong đó có nhiều tuyến đường quan trọng:

      Đường tỉnh Lộ bắt đầu từ xã Quỳnh Bá tiếp giáp với đường 537A nên gọi là đường 537B đi qua các xã Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Minh, Quỳnh Lương, Quỳnh Bảng, Quỳnh Liên để đến Quỳnh Phương rồi qua Quỳnh Dị, Quỳnh Thiện (nay là thị trấn Hoàng Mai), cuối cùng nối với Quốc lộ 1A. Đường này còn gọi là đường Bãi Ngang dài khoảng 30km, nay đã được mở rộng và nhựa hoá. Phục vụ kinh tế, quốc phòng và nhu cầu đi lại, giao lưu buôn bán của các xã ven biển.

      Đường sông: Có dòng sông Mai Giang chạy qua, dài khoảng 2km. thuận lợi cho thuyền bè đi lại.

      Cửa Cờn hay cảng Xước ngày xưa còn là một quân cảng lớn, các vua chúa, tướng lĩnh mỗi lần Nam chinh hay tuần thú Phương Nam đều dừng thuyền chiến lại để nghỉ ngơi. Lê Đại Hành (980-1005), Lý Thái Tông (1028-1054), Trần Anh Tông (1293-1314), Trần Duệ Tông ( 1373-1377), Lê Thánh Tông… đều ghé quân ở cửa Cờn. Từ cửa Cờn, thông thương đến cửa Biện, cửa Trào phía bắc… vào đến cửa Quèn (Quyền Môn), cửa Thơi (Thai Môn), cửa Hội phía nam…

      Từ cửa Cờn trên địa bàn Quỳnh Phương thuyền buôn, thuyền đánh cá đều có thể theo đường biển đến nhiều cửa biển, nhiều bãi đánh cá khác trên đất nước.

      Ngoài ra còn có cầu bắc qua sông Hoàng Mai nằm trên tuyến đường 537B từ Quốc lộ 1A đến đền Cờn và bến đò Trắp qua sông Hoàng Mai để từ Quỳnh Lập qua Quỳnh Phương.

      Quỳnh Phương không có điều kiện để sản xuất nông nghiệp nhưng lại hết sức thuận lợi khai thác các nguồn lợi từ biển như đánh bắt, nuôi trồng thuỷ, hải sản, nghề làm muối. Có đường bờ biển dài là tiềm năng để phát triển du lịch biển hiện nay cũng như trong tương lai.

  1. Quá trình hình thành làng xã
  2. Dân cư:

    Huyện Quỳnh Lưu là một trong những cái nôi của người Việt cổ với nền văn hóa Quỳnh Văn, cách ngày nay trên dưới 5.000 năm. Sau đó là cư dân ở trại Ổi (Quỳnh Hồng) khoảng 4.000 năm, ở Đồi Đền (Quỳnh Hậu) khoảng 3.500 năm.

    Hiện nay chưa có một tài liệu khoa học thành văn nào nói đến việc con người đến cư trú ở Quỳnh Phương từ lúc nào nhưng qua một số cổ vật còn sót lại và gia phả cùng lời tuyền tụng của bô lão địa phương ở những xã bên cạnh cho phép chúng ta khẳng định rằng cư dân đến cư trú cùng Quỳnh Phương là rất sớm.

    Theo các bô lão địa phương (Quỳnh Lộc) cho biết và gia phả họ Bùi ở Diễn Kim thì tướng quân Bùi Văn Thốn tức Bùi Mạnh Bá đã chỉ huy một cánh quân từ Trắp, Trẹ (Hải Lệ) đi đường biển vào Cửa Hội bấy giờ để ngăn chặn đội quân của Triệu Đà đang truy kích An Dương Vương. Nhưng công việc không thành, một số tàn quân đã lui về kẻ Trẹ, kẻ Trắp. Qua đó khẳng định trước công nguyên vào khoảng gần 1.300 năm, ở vùng đông bắc Quỳnh Lưu đã có người sinh sống(1).

       Ngày 3-4-1996, tại xóm Đồng Tiến xã Quỳnh Lập (trước là làng Hữu Lập), ông Vũ Đức Độ khi dời mộ bà cô tổ có đào thấy 5 chuổi tiền đồng, nằm cách mộ khoảng 3 mét. Số tiền bị rỉ ghét gần hết. Những đồng còn sót lại có niên hiệu “Thái Bình thông bảo” đúc thời Đinh Tiên Hoàng (978-989), “Thiên Phúc Thông bảo” đúc thời Lê Đại Hành (980-1005), có đồng tiền đúc thời Hồ Quý Ly, “Thánh Nguyên thông bảo” (1400-1401),v.v… xa hơn nữa có những đồng tiền đúc thời Đường như “Khai Nguyên thông bảo” (713-742 ) thời Đường Huyền Tông (712-776), “Gia Hựu thông bảo” (1056-1064) thời Tống Nhân Tông (1023-1064), “Hy Ninh Thông bảo” (1068-1078)v.v… và nhiều đồng tiền khác mang niên hiệu hoàng đế Việt Nam và Trung Hoa. Hữu Lập ở sát ngay cửa Cờn, cảng Xước, điều đó không những khẳng định xa xưa ở Quỳnh Lập cũng như Quỳnh Phương đã có cư dân mà cư dân đã đông đúc, hơn nữa còn có sự trao đổi mua bán qua lại giữa người Việt Nam với người Trung Hoa.

       Dân cư làng Phương Cần được hình thành từ hai nguồn chủ yếu là người bản địa cổ đại và người di cư từ các nơi khác về.

       Người bản địa từ những nhóm người cổ đại thuộc văn hoá Quỳnh Văn ở vùng Bãi Ngang.

       Theo phát hiện khảo cổ học thì những người thời đại đồ đá mới Quỳnh Văn, cư trú ở vùng Bãi Ngang cách chúng ta ngày nay khoảng 5.000 năm. Công cụ lao động và sinh hoạt đào được ở vùng Lương-Minh-Bảng năm 1978 đã chứng minh điều đó(2).

       Ở Phương Cần và vùng ven biển Quỳnh Lưu có huyền thoại “Ông Đùng gánh núi”, “Dấu chân Ông Đùng”, “Viên đá mặt trời”.v.v… Cùng các thần thoại và di tích về Thần Núi (Sơn Thần), “Thần Nông”, “Thần Nước” (Hải Thần, Thuỷ Thần), “Hạt lúa khổng lồ”, “sự tích hạt lúa”.v.v… Đó là những thần thoại phản ánh về thời cổ đại, tương ứng với thời đại Hùng Vương và Âu Lạc ở nước ta.

       Gia phả, thần phả cho biết vào cuối thời Bắc thuộc, có một xóm cổ ở vùng chân núi Hùng Vương gọi là xóm Cồn (về sau gọi là Cồn Bảy Mả) sau đổi thành Càn Hải được biết đây là xóm cổ nhất của làng Phương Cần (địa danh Hương Cần có thể xuất hiện vào thế kỷ VIII, đời Đường. Lúc đó cả nước chia thành 159 hương).

       Xóm Cồn Hải cư trú bên bờ biển giáp núi. Cư dân ở đây tận dụng những dải đất ven núi để trồng trọt. Về sau họ chuyển về vùng Cồn Miệu bên bờ sông, nơi có đất đai thuận lợi hơn để sản xuất nông nghiệp.

       Một số cư dân cổ khác cư trú lâu đời ở vùng cửa Ngâm (tức Kẻ Xóm). Sau đó một số cư dân ở xóm này dời về vùng cửa Lạch, đánh bắt hải sản làm nguồn sống chính. Đó là những cư dân đầu tiên của xóm Trại Lân (tức Thái Học ngày nay).

       Nguồn dân di cư từ phía Bắc và Nam tới khoảng từ thế kỷ thứ X trở lại đây. Họ cư trú ở các xóm Cồn Miệu, Trại Lân bên cạnh cư dân bản địa, dần dần hình thành hai khu vực dân cư đông đúc như ngày nay.

       Do nhu cầu nghề nghiệp và cuộc sống, nhiều người lại từ quê hương Phương Cần đi làm ăn sinh sống ở nhiều nơi trong cả nước như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu… và ở xã Quỳnh Thắng trong huyện. Dù ở nơi đâu họ cũng hướng về quê hương và ở những nơi đó họ đã hình thành những đơn vị dân cư người Phương Cần.

    Tên gọi và các thôn làng qua thời gian:

    Từ thế kỷ thứ VIII (thời thuộc Đường) ban đầu gọi là xóm Cồn, sau đổi thành Càn Hải (tức Kẻ Càn) ở phía bắc và kẻ Xóm ở phía Nam, về sau hình thành xóm Trại Lân ở cửa Lạch.

      Đến thời Trần đổi là Cần Hải, sau đổi thành Hương Cần rồi Phương Cần.

    Thời Lê-Nguyễn, xã Phương Cần gồm 7 làng: Phương Cần, Ngọc Huy, Hữu Lập, Đông Hồi, Hải Lệ, Đông lý, trong tổng Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu.

    Thời thuộc Pháp gọi là thôn Hương Cần thuộc tổng Quỳnh Mai sau đổi là tổng Hoàng Mai.

      Sau cách mạng tháng Tám 1945 xã Quỳnh Phương gọi là xã Phương Cần và xóm Thượng Lân.

      Năm 1946, xã Phương Cần gồm 5 thôn với tên gọi mới: Thái Học, Ái Quốc, Quang Trung, Hồng Phong và Hữu Nam.

    Năm 1954, thôn Hữu Nam hợp về xã Quỳnh Liên, xã Phương Cần mang tên xã Quỳnh Phương.

      Hiện nay toàn xã có 11 thôn, bao gồm: Thôn Hồng Hải, Hồng Thái, Phương Hồng, Tân Hải, Tân Tiến, Quyết Tiến, Thân Ái, Ái Quốc, Quang Trung, Hồng Phong và Tân Phong.

      Phân loại dân cư trong làng:

      Sĩ, nông, công, thương làm thước đo phân loại dân cư trong làng, làng nào cũng tự hào, về tứ của làng mình. Trong tứ dân đó đứng đầu là sĩ. Nói là sĩ, nhưng cũng có người làm nghề nông, gia đình bao giờ cũng có ít nhiều ruộng đất hoặc có một nghề thủ công khác. Ở Phương Cần nhiều gia đình có người đi học làm quan, làm thầy đồ, thầy thuốc, song không mấy gia đình chỉ sống bằng chữ nghĩa. Nếu không pha nông, pha thủ công thì cũng pha thương. Bởi họ hiểu rằng việc đề cao kẻ sĩ, đưa kẻ sĩ lên đầu, “nhất sĩ nhì nông”, nhưng khi mùa màng thất bát, hết gạo vác đấu chạy rông đi vay thì lại “nhất nông nhì sĩ”.

      Phân loại dân cư còn dựa theo đời sống kinh tế hạng giàu và nghèo.

          Hạng giàu, họ là chủ ra lộng vào khơi, chủ những con thuyền mành ra Bắc vào Nam, kinh doanh các loại hàng hoá. Có tiền họ mua ít ruộng để làm cái vốn căn bản và lưu lại cho con cháu hoặc những gia đình có người đỗ đạt làm quan, giữ những chức vụ này khác trong cơ quan của nhà nước.

       Hạng nghèo, có ít ruộng đất, không có thuyền, có đồ nghề đánh cá, là số đông, họ phải làm thợ, làm bạn…cho chủ thuyền để kiếm gạo nuôi vợ, con.

  1. Thiết chế làng xã

       Lý trưởng là người đứng đầu của làng, xã. Thời Lý, Trần gọi là hương trưởng, thời Lê là xã trưởng, thời Nguyễn là lý trưởng. Lý trưởng do dân bầu, khoảng 3 – 4 năm bầu một lần. Năm Thành Thái (1907) quy định: “tất cả các dân đinh trong hộ tịch của làng đều được dự và bầu chánh, phó lý. Người được bầu phải có “gia sản, cần cán khả khan, quốc ngữ, Hán tự khả thông” (nghĩa là gia đình giàu có, làm việc cần mẫn, thông thạo chữ quốc ngữ, chữ Hán). Ngoài lệ đó, còn quy định thêm “người nào làm việc đủ hạn 9 năm, sẽ được hưởng cho hàm bá hộ, sau đó 5 năm cho thăng một lần. Làm việc được 3 năm trở lên mới cho trừ dịch (không phải làm phu phen tạp dịch)([1]). Trách nhiệm của Lý trưởng là trông coi tất cả công việc trong làng từ đối nội, đối ngoại đến việc giữ vững trật tự, an ninh trong thôn xóm, giải quyết mọi kiện tụng trong phạm vi luật cho phép. Lý trưởng là người có quyền lực lớn nhất trong làng và điều khiển các nhân viên dưới quyền.

       Phó lý điều khiển việc làng lúc Lý trưởng vắng.

       Giúp việc cho Lý trưởng, phó lý là Ngũ hương cũng do làng cử lên, những người này thường có học gồm các chức danh:

          Hương bộ, trông coi việc sinh tử, giá thú

Hương kiểm, phụ trách phu đài, tạp dịch, an ninh trật tự

          Hương Mục, phụ trách ruộng đất, thuế má

Hương bản, trông coi việc tế lễ nơi đình chùa và ở đình làng

Hương dịch, coi việc tế lễ, đình đám của làng, mời làng đi họp

       Các chức danh này tồn tại đến khi Cách mạng tháng Tám (1945) thành công. Mỗi làng có con dấu riêng do Lý trưởng giữ để chứng nhận vào các giấy tờ theo quy định do Nhà nước đặt ra.

       Hội đồng Kỳ mục, bao gồm, các quan, viên chức đã nghỉ hưu, Ngũ hương đã nghỉ hoặc người có phẩm hàm từ Cửu phẩm trở lên. Tuy Hội đồng Kỳ mục không nằm trong bộ máy hành chính Nhà nước nhưng lại có vị thế rất lớn trong làng, giữ vai trò trung gian giữa làng và Nhà nước. Hội đồng Kỳ mục làm cố vấn cho bộ máy hành chính.

       Các dịch, mục làng. Họ là bộ phận không được Nhà nước công nhận nhưng đảm nhiệm thừa hành nhiều công việc của làng, bao gồm: các Tri Giáp, Tri Xóm, Trùm Dịch, Trương Tuần. Trong đó: các Tri Giáp, Tri Xóm có nhiệm vụ lo các việc trong địa phận mình như tế lễ ở đình, đền, đám ma, đám cưới…; Trùm Dịch có nhiệm vụ giúp việc cho Tri Giáp, Tri Xóm; Trương Tuần có nhiệm vụ giúp việc cho Lý trưởng, Tri Giáp, Tri Xóm trong mùa thu thuế, thu phí tế lễ, sửa đình, đền.

       Trong làng, cũng như nhiều địa phương khác còn có các chức chạy (bỏ tiền ra mua tuỳ theo thứ tự và vị trí của chức) bao gồm: Cai xã, Hương tú, Viên mục, Trương tuần, Tri, Nhiêu. Làng, xã bán các “chức chạy”  khi cần tiền chi tiêu vào những công việc như làm đường, sửa đình, đền, sơn kiệu. Người có chức chạy, được miễn phu phen tạp dịch và khi có việc làng, họ được ngồi vào các bàn ngồi sắp xếp mâm cổ ba, tư, nhưng không được bàn bạc những việc lớn hay việc có tính chất chính trị của làng, xã.

       Ngoài ra, “Lệ làng” và “Hương ước” cũng quy định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của từng thành viên trong làng. Cũng như các làng xã nông thôn Việt Nam, nhân dân trong các làng sống theo một nguyên tắc: “Phép vua thua lệ làng”, có những việc không vi phạm phép nước nhưng đụng chạm đến lệ làng cũng bị xử lý rất nặng. Làng mang tính chất khép kín với những quy định khá khắt khe.

lsqp3

       III. Phát triển kinh tế

  1. Đánh bắt thủy, hải sản

       Nghề đánh cá:

       Quỳnh Phương có hơn 2,7 km bờ biển, có cửa biển là Cửa Cờn. Vùng biển Quỳnh Phương còn có nhiều phù du sinh vật và nhiều thức ăn từ đất liền do sông Mai Giang đổ ra, tạo ra một ngư trường hàng năm có thể khai thác hàng ngàn tấn cá.

       Quỳnh Phương có hai mùa cá. Mùa cá nam từ tháng 4 đến tháng 9, mùa này hay có bão tố, nên ngư dân khai thác vùng lộng và vừa khơi vừa lộng; vùng cá bắc, từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, mùa này ít bão tố nên khai thác các bãi cá vùng khơi là chủ yếu. Cá biển ở Quỳnh Phương có nhiều loại: cá thu đen, thu trắng, cá ù, cá nục, cá sú, cá thiều, cá cháo… và cả tôm hùm, tôm he, tôm sắt, mực ván, mực ống…

       Nghề đánh cá biển ra đời sau nghề nông, nhưng là nghề chính của cư dân. Các nghề khác tuy phát triển nhưng vẫn đứng sau nghề cá như: Nông nghiệp, buôn bán, dịch vụ…

       Với lợi thế giáp sông, giáp biển có điều kiện tự nhiên với nguồn tài nguyên thuỷ, hải sản phong phú. Ngay từ thủa ban đầu, khi công cuộc đánh bắt còn thô sơ, dân làng Phương Cần đã đẩy mạnh việc đánh bắt thuỷ, hải sản ven sông, ven biển phục vụ nhu cầu cuộc sống và trao đổi, buôn bán.

       Dưới chế độ phong kiến, nghề đánh cá phát triển chậm chạp. Thời thuộc Pháp ngư dân Phương Cần chủ yếu dùng loại thuyền nhỏ, dài 6-10m, buồm nâu hình cánh én. Chỉ có một số ít dùng thuyền lớn dài 12m.

       Công cụ, phương tiện đánh bắt thô sơ, ngư dân chỉ có thể đánh bắt cá bằng bè luồng (hay còn gọi là bè gày kết lại thành mảng), đời sống khổ ải, phải dầm mưa dải nắng cả ngày cả đêm trên biển, chịu nắng, chịu rét vô cùng cực khổ, không phải thuyền to máy lớn như bây giờ, hơn 95% ngư dân đánh bắt cá chủ yếu bằng bè, vì thế năng suất lao động thấp.

       Việc theo dõi thời tiết cấp báo khi mà khoa học kĩ thuật chưa phát triển đã ảnh hưởng đến việc cải tiến ngư cụ, phương tiện đánh bắt và quá trình đi biển của ngư dân. Trong khi lao động trên sông nước lại phải đối mặt với nhiều thiên tai, lao động nặng nhọc, không có sức khoẻ không kham được.

       Sinh mệnh của ngư dân vô cùng bấp bênh. Nghề của họ chỉ biết nay mà không biết mai. Nhiều khi thuyền ra khơi gặp sóng to gió dữ, nhưng: “Không đi vợ đói con xanh, đi thì vất vả thân anh thế này”. Những tai hoạ bất ngờ dữ dội và đau thương luôn xẩy ra. Trời biển đang lặng, các thân nhân của những người “đi nghề” đang mong họ trở về với cánh buồm no gió, với khoang cá đầy. Những người vợ thường:

Chiều chiều ra bãi đứng ngong,

Thấy trời đổi gió mà mong thuyền về.

Còn những người ở nhà:

Trông ra thấy sóng gầm gào,

Mưa to gió lớn lao đao đứng ngồi.

       Bao gia đình, con mất cha, vợ mất chồng, em mất anh,…tang tóc đến nhanh như tia chớp và đến với nhiều người cùng một lúc. Năm Canh Thân (1820) vào một ngày tháng tám, hôm nay ngoài đường vui vẻ, ngày mai đã nhiều người chít khăn tang, trong nhiều nhà và ngoài bãi, bao tiếng khóc ai oán, mất người thân vang lên nức nở nghẹn ngào. Sóng gió biển cả đã cướp đi bao chàng trai khoẻ mạnh, nhấn chìm bao thuyền, lật đổ bao nhà cửa, lôi kéo đi bao của cải…Chính vì thế nên đi biển phải có kinh nghiệm, kỹ năng đoán trăng, đoán sao, đoán mây, nhìn nước như: Khi nào ráng đỏ, mắt mê hồng lên, rồi tắt thì bão về rất nhanh, thường thì đúng 100%. hay khi nào thấy đẻn đập đuôi, nước chảy có xoáy thì lôi mà về, rồi tháng 8 trông ra tháng 3 trông vào là trười lành…

       Qua thời gian các thế hệ ngư dân Phương Cần vẫn không ngừng vươn lên, vượt qua những khó khăn về tự nhiên và xã hội. Từng bước cải tiến công cụ và phương tiện đánh bắt. Dù rằng đây là công việc đòi hỏi phải có nhiều thời gian, tiền của, sự hộ trợ của nhà nước.

       Phương tiện và công cụ đánh bắt từng bước đã được cải tiến. Các thế hệ ngư dân từ chỗ dùng thuyền nhỏ, bè mảng, thậm chí dùng thuyền độc mộc tiến đến dùng thuyền buồm, thuyền dạ đánh được ở những vùng xa. Lưới nhặt, sợi gai tiến đến dùng lưới mực,  lưới rê để bắt các loài cá to hơn.

       Phân công lao động trên một chiếc thuyền ở Phương Cần cũng  như nhiều nơi khác. Trong nghề đánh cá, mỗi rhuyền ra khơi, nhiều là 12-13 người, ít là 6-7 người, gồm một thợ, một phó thợ hay còn gọi là ông lão lèo, một trai làm “vẹt sắp” còn lại là thợ bạn, chủ thuyền sắm đồ nghề, mượn thợ bạn đi đánh cá.

       Kĩ thuật và phương tiện đánh bắt từng bước được cải tiến trên cơ sở những kinh nghiệm mà cha ông ta đã tổng kết, truyền lại cũng như những kinh ngiệm mà họ tích luỹ được về dự báo thời tiết, lịch con nước, vùng cá, vụ cá.v.v…để họ rút ra trong thực tiễn:

Tháng năm trông tây, tháng mười trông đông.

Tháng giêng gió ngoài, tháng hai gió trong.

Tháng ba nồm đông, tháng tư bấc rải.

Tháng năm khuấy lại, tháng sáu nam trong.

       Nhờ vậy, năng suất và sản lượng đánh bắt cá của ngư dân Phương Cần ngày càng cao cải thiện đời sống cho ngư dân và bắt đầu có sự tích luỹ về vốn.

       Sau cách mạng tháng Tám, sản lượng đánh cá cá ở Phương Cần có lúc chiếm tới 1/4  sản lượng toàn huyện.

       Trước cách mạng, làng Phương Cần có hơn 30 thuyền đánh cá các loại (trong đó có khoảng 6 thuyền lớn đi khơi gọi là lưới chiêm), góp phần giải quyết việc làm cho người dân lao động trong làng.

       Hiện nay khi phương tiện đánh cá đã được cách tân, thông tin hiện đại, tổ chức cấp báo nhanh chóng, ngư dân ra khơi đánh cá và người thân ở nhà đỡ lo lắng về những cơn bão bất ngờ. Ra khơi vào lộng bằng thuyền máy, lưới bằng sợi ni lông, sợi cước họ ra sức làm nghề. Sản lượng khai thác cá ở Quỳnh Phương trong những năm gần đây tăng. Vì vậy, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhà cửa đã được ngói hoá, nhiều nhà cao tầng mọc lên, có mức sống khá. Điện, đường, trường, trạm được tu sửa, nâng cấp và xây dựng đáp ứng nhu cầu của người dân.Trụ sở Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân được đầu tư xây dựng khang trang. Nhiều nhà máy, xí nghiệp chế biến thuỷ, hải sản mọc lên với số vốn đầu tư lớn. Đường liên thôn, liên xã đã được bê tông hoá, đi lại dễ dàng. Nhiều nhà có ôtô, xe máy… con cái được ăn học đầy đủ, đàng hoàng. Nhiều người đã trưởng thành từ cơ sở, có trình độ đại học và trên đại học.

  1. Nông nghiệp:

       Cư dân Quỳnh Phương xưa đã biết canh tác, trồng trọt trên những vùng đồng bằng nhỏ hẹp ven các dãy núi, nhưng do đất cát, độ sói mòn cao lại thiếu nước ngọt nên cho năng suất thấp. Các loại giống  cây trồng chủ yếu là lúa lốc, lúa thông, lạc, đậu, ngô với các lọai nông cụ là cày chìa vôi, bừa chữ chi, bừa chén, cào, bàn vét, liềm, hái… sức kéo thiếu, nên mọi nhu cầu vận chuyển thóc lúa, lương thực thu hoạch, phân tro, hàng hóa khác đều nhờ vào đôi quang gánh trên vai người nông dân. Phân bón ruộng chủ yếu là phân xanh, phân chuồng, bã mắm và phân rác. Do chưa có trình độ thâm canh cũng như áp dụng tiến bộ khoa học kỷ thuật nên năng suất lúa thấp, chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho nhân dân, việc thiếu đói ngày giáp hạt là điều không thể tránh khỏi. Theo thời gian năm tháng, nhân dân nơi đây đã biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào canh tác, sản xuất nên việc trồng ngô, khoai, đậu, lạc, vừng ngày càng đạt năng suất cao.

  1. Nghề làm nước mắm:

       Nghề chế biến, sản xuất và buôn bán nước mắm đã có từ lâu gắn liền với nghề đánh, bắt cá của ngư dân trong làng.

       Ở Phương Cần cũng như nhiều làng nghề làm nước mắm khác, chế biến và sản xuất nước mắm đều phải qua các khâu:

  1. Chọn cá: Phải là cá có nhiều chất đạm như cá nục, cá thu ù, cá trích, cá cơm (cá trỏng)…
  2. Cho cá vào thùng. Tuỳ cá đã ướp rồi hay chưa ướp mà quyết định số muối tương ứng.
  3. Ngâm ủ cho đến bao giờ cá thành chượp ngấu đến độ cuối cùng mới thôi.
  4. Pha chế: Dùng gạo nếp hoặc gạo đỏ không giã, rang làm thính, rang bằng chảo gang, rang đến khi gạo không còn thể tinh bột mà thể tinh dầu mới thôi. Rang gạo song rồi, thắng mật mía cho đến khi nào không khét không chua mới cùng với thính cho vào thùng đựng chượp, quấy đều rồi đổ nước vào.
  5. Nấu: nấu là xử lý hết các tạp chất còn lại trong chượp. Nấu được rồi, phân nước mắm ra làm nhiều loại, thường là ba loại.

       Ở Phương Cần số chủ thuyền sản xuất nước mắm, kể cả chủ lớn và chủ vừa có thời kỳ chiếm tới 6% số lượng hộ trong làng. Có chủ giàu đã từng có trong sân, trong vườn nhà mình 70-80 thùng gồm các loại thùng đựng mắm cái, mắm chượp, mắm bột, mắm cơm.

Nước mắm làng Phương Cần, loại đầu nỏ để lâu, nổi tiếng thơm ngon có giá trị như một loại thuốc bổ. Chỉ uống một chén nhỏ, sẽ tăng sức chịu đựng rét mướt cho những người đi biển mùa đông, tăng sức khoẻ cho những người thợ lặn, chữa được bệnh đau bụng gió, đau bụng bão. Trong mâm cơm chỉ cần có chút nước mắm đầu nỏ cũng làm cho bữa ăn thêm ngon.

  1. Nghề làm muối:

       Xưa kia dụng cụ làm muối chủ yếu như nồi nấu bằng đất sét, hòn núc kê… Người dân thời ấy làm muối rất đơn giản, cho nước biển vào nồi đất chưng cất cho nước bốc hơi hết còn lại muối. Phương pháp này tốn nhiều công sức và vật liệu, năng suất lại thấp. Đến cuối thời Hậu Lê, đầu thời Nguyễn, người dân Hà Trung, Nga Sơn (Thanh Hoá) di cư vào sống dọc ven sông Mai Giang thì nghề làm muối phơi nước chạt trên ô nại, năng suất cao, đỡ tốn nguyên vật liệu, hạt muối mặn lại có vị ngọt về sau mới xuất hiện.

       Ngày xưa có phong tục, mỗi dịp đầu năm, sau khi tu sửa lại ô nại, làm lễ tế ông Thánh “Tề di Ngô”, người đầu tiên tìm ra chất muối mặn nuôi sống con người, cũng như nhà nông tế ông thần Nông vậy.

       Trước đây muối sản xuất ra chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, khi có dư thừa thì đem ra trao đổi ngoài thị trường, hoặc trong thôn xóm.

       Ngày nay với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nghề muối được chú ý đầu tư phát triển, các cánh đồng muối được mở rộng, các ô nại muối được xây dựng chắc chắn.

       Hiện nay trên địa bàn xã có chi nhánh muối Vĩnh Ngọc đóng với tên: đơn vị Ngọc Huy với diện tích 46,84 ha. Trong đó thuộc xã Quỳnh Phương là 26,49 ha, thuộc xã Mai Hùng 20,32 ha. 

  1. Buôn bán:

       Dưới chế độ phong kiến, nghề buôn bán ở Quỳnh Phương đã phát triển. Nhà nước cho thành lập chợ ở nhiều nơi trong huyện, phục vụ nhu cầu mua bán trao đổi hàng hoá của nhân dân. Thời Lý cho lập ở Vân Tụ tức Quỳnh Tụ (là Quỳnh Xuân) gọi là Vân Đồn cảng. Thuyền buôn nhiều nơi trong nước vào Vân Đồn cảng mua bán, trao đổi hàng hoá. Năm (1349), nhà Trần đã cho lập Trấn quan, Lộ quan và Sát hải sứ ở Vân Đồn để trông nom việc buôn bán và thuyền bè ra vào.

       Ở Phương Cần, chợ Càn đã xuất hiện trước thời Đinh – Lê, chợ ban đầu nhỏ chỉ giao lưu trong vùng sau mở rộng đi các nơi trở thành trung tâm của vùng đông bắc của huyện 

       Nghề buôn bán hải sản cũng là nghề chính của dân làng Phương Cần xưa nay.

       Trước cách mạng tháng Tám, làng có khoảng 20 chủ thuyền mành buôn bán hải sản đi xa, thu hút hàng trăm lao động. Hàng hải sản Phương Cần có chất lượng cao, được ưa chuộng nhiều thị trường ngoài Bắc như Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Hà Đông, Hà Nam.v.v… đem lại nguồn thu nhập khá cho dân làng.

       Buôn bán hải sản ở các chợ trong huyện chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm. Với một lực lượng đông đảo, đôi quang gánh trên vai họ có mặt ở hầu hết các chợ. Các mặt hàng hải sản Phương Cần cũng rất đa dạng như: tôm, cua, cá, ngao, ốc, mực… Được đưa đến các chợ từ rất sớm.

“Thương tính toán lưu thông, bán mua lanh lảu,

          Thong thả thuở chợ đông sông cái, thuyền cao mái rộng nhởn nhơ, nghênh ngang nơi Nam Định, Bắc Kỳ, bạc bó tiền trăm dộn dạo”.

“Chợ hôm sớm đôi chiều họp, khách quý bán mua của báu”.

          Nghề buôn bán nước mắm, mỗi thuyền có trọng tải từ 10-20 tấn. Những thuyền mành ra khơi có khi 5, 7 thuyền. Họ phải đi nhiều thuyền để tương trợ cho nhau, hàng về: vải vóc, lương thực, chăn chiếu,v.v…

       Ngày được gió, trước khi thuyền nhổ neo, bao giờ chủ thuyền cũng theo tập tục làm lễ “xuất lạch” cúng bái tại thuyền và trên bến để cầu xin trời đất, thánh thần, Đức Ông sông Nước, Hà Bá thuỷ quan và cả những người bất hạnh không may gặp nạn trên sông nước … phù hộ độ trì dong buồm ra đi được thuận buồn xuôi gió, buôn may, bán đắt, mọi người mạnh khoẻ, bình an.

       Cuối năm, vạn thuyền của mỗi làng có một người đứng đầu được mang danh là quan Phụng Sai. Chức danh này hàng năm do tập thể cử ra và phải bốc thăm, thường là những người có uy tín về tuổi đời, tuổi nghề và nhân cách.

       Ngày nhổ neo, cả vạn thuyền của mỗi làng nhất nhất chờ đợi và cùng hộ tống thuyền đi đầu: Thuyền quan Phụng Sai, rước “đồ mã” đi sau liền. Khi đoàn thuyền về đến bến sông của mỗi làng, được Lý hương và các vị chức sắc và toàn dân đón tiếp long trọng, rước bát hương, hòm sắc, dâng lên đền chính để làm lễ.

       Phương Cần không chỉ có nghề khai thác thuỷ, hải sản với điều kiện tự nhiên thuận lợi mang lại, người dân nơi đây cũng đã biết đến buôn bán, khai thác tận dụng đất đai để phát triển sản xuất phục vụ nhu cầu cuộc sống hàng ngày, tăng thêm thu nhập cho bản thân. Ngày nay đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Quỳnh Phương ra sức khai thác các tiềm năng thế mạnh của mình, chế biến và nuôi trồng thuỷ, hải sản, tiềm năng du lịch biển, dịch vụ…để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá quê hương, đất nước.

  1. Giá trị văn hóa – phong tục tập quán
  2. 1. Lễ hội.

          Phương Cần trong năm có nhiều lễ tế thuộc các loại hình tín ngưỡng như: giỗ, họ (tế họ), tế thần ở các đền, tế thánh, lễ chùa,v.v… Hầu hết tế lễ được tổ chức từ tháng Giêng đến tháng ba âm lịch.

          Lễ hội hay còn gọi là đại tế, hội làng, lớn nhất là lễ hội đền Cờn mỗi năm được tổ chức một lần.

          Lễ hội đền Cờn diễn ra chủ yếu trong 3 ngày từ 19 đến 21 tháng Giêng âm lịch hàng năm, nhưng thực ra kéo dài một tuần. Vì là đền quốc tế thờ “Tứ Vị Thánh Nương’ nên những ngày lễ hội không chỉ nhân dân trong huyện, mà người ngoài Bắc, trong Nam đều đến hành hương. Nói về lễ hội thúc ước làng Phương Cần có câu:

              Tha thướt gấu quần chân dép,

              Màu nhởn nhơ khách thị khách thành.

Lễ hội diễn ra như sau: (theo Âm lịch tháng giêng)

          Ngày 15: tế dịch bào

          Ngày 16: rước các thần ở đền Trong và đền Ngoài ra chỗ phat tích tức bờ biển nơi mà Tứ Vị Thánh Nương bị sóng, gió dạt vào và cũng là nơi cây gỗ thần trôi tới. Tế lễ xong, trên đường rước về, cùng rước các thần ở Ngoài về đền Trong.

          Ngày 17: rước thần lên chùa Càn thăm Phật. Đây là lễ trả ơn ông sư đã cứu mạng.

          Ngày 18: rước các thần ra đình chợ.

          Ngày 19: đại tế ở Đình Chợ.

          Ngày 20: rước thần nào ở đền nào từ Đình Chợ về đền ấy.

          Ngày 21: chạy Ói.

          Các trò vui đặc sắc trong lễ hội:

          Đua thuyền: lễ hội đua thuyền thường mang ý nghĩa, cầu phong hoà vũ thuận, cầu được mùa, no ấm.

          Cuộc đua thuyền thường diễn ra trong một buổi, nhưng các làng chuẩn bị hàng tháng trước ngày lễ hội. Quy mô tổ chức đua thuyền gồm 3 làng: Phương Cần (Quỳnh Phương), Dị Nậu (Quỳnh Dị) và Hữu Lập (Quỳnh lập). Thuyền đua với hình thon dài được đóng cẩn thận, mặt ngoài hun khói lá thông và bôi trơn để tăng độ lướt trên nước. Một số làng, thuyền đua được chạm hình long phượng gọi là thuyền long mã. Để thắng cuộc đua thuyền trong lễ hội, làng phải chọn các trai tráng khoẻ mạnh, thạo sông nước, luyện tập trước một thời gian. Mỗi thuyền đua gồm có: một người chèo lái ở mũi thuyền, gọi là chèo dốc làm nhiệm vụ chỉ huy. Bên cạnh là người cầm cờ và một người cầm mõ để phát lệnh khua quân. Mỗi mạn thuyền có 6 người cầm dầm, đuôi thuyền có 2 người chèo lái. Cáo thần xong khi có lệnh cả 3 thuyền cùng xuất phát. Hai bên bờ sông dân làng đứng xem vỗ tay reo hò cổ vũ.

          Lễ chạy Ói diễn ra vào ngày 21 tháng Giêng. Đây là tục chạy dải của làng, chạy từ đền Cờn đến hòn Ói, cách đền Cờn khoảng 8km. Hòn Ói nằm bên bờ biển, giáp ranh giữa Quỳnh Lương và Quỳnh Bảng. Tục chạy này được tổ chức để nhớ lại huyền thoại từ xưa. Thể hiện tinh thần thượng võ của người dân làng Phương Cần.

          Truyện kể rằng: Vào một năm có cây gỗ to trôi từ Biện Sơn, theo nước sông Hồng đến Cửa Cờn gặp thủy triều dâng lên, cây gỗ thần theo nước sông trôi vào Lạch, đầu tiên trôi vào Hữu Lập (Quỳnh Lập) nhưng không ai làm gì, rồi cây gỗ thần trôi vào trước đền Cờn hiện nay, Phương Cần biết cây gỗ nhưng cũng không ai để ý. Nước thủy triều dâng đẩy cây gỗ thần ra khỏi cửa Lạch Cờn theo dòng nước chảy thẳng xuống Ói (thuộc Quỳnh Bảng, Quỳnh Lương lúc bấy giờ), quá giờ Ngọ, về chiều gió Nồm thổi mạnh, cây gỗ dạt vào rùng ngư dân Quỳnh Lương đang kéo, ngư dân xô gỗ, gỗ lại dạt vào. Hoảng sợ, ngư dân liền cầu khẩn: “Phải gỗ thần cho tôi mẻ cá” quả nhiên, mẽ rùng ấy cá tràn trề. Dân Quỳnh Lương khiêng cây gỗ đó lên bãi, che chắn cẩn thận, hàng ngày cầu khẩn, coi đây là một vị thần, lập đền thờ cây gỗ, gọi là Mộc Thần. Hàng năm, xuân- thu – nhị kỳ cúng tế.

          Từ ngày thờ Mộc Thần, dân Phú Lương mỗi ngày làm ăn thịnh đạt. Biết ra, dân làng Phương Cần ân hận lắm. Họ họp làng, bàn mưu khiêng cây gỗ thần về làng mình. Một toán tráng đinh được làng cử ra thực hiện.

          Vào một đêm trời tối, toán tráng đinh ăn mặc gọn ghẽ, mang theo đòn khiêng, dây chạc và mỗi người một tay thước (gậy) ra đi. Tới Phú Lương vào lúc nửa đêm, họ nạy cửa đền, thắp hương lạy tạ Mộc Thần rồi xin khiêng Mộc Thần về làng. Đi được một đoạn, dân Phú Lương phát hiện ra. Tức thì, trống, mõ ngũ liên, tù và nổi lên dồn dập. Phú Lương tập hợp dân làng chia làm hai toán. Một toán chạy xuống Phú Nghĩa, một toán chạy lên Phương Cần, đến bãi Sao Sa thì bắt gặp tráng đinh Phương Cần đang đặt cây gỗ, ngồi nghỉ. Nơi này đất trũng, khi đi nước thuỷ triều xuống, khi về nước thuỷ triều lên, họ đang tìm cách vượt qua.

          Gặp nhau, Phú Lương có đọ sức một hồi, không thể thắng vì người ít, thế yếu, bị Phương Cần đánh cho tơi bời. Phú Lương cho người về gọi thêm dân làng. Khi dân làng Phú Lương rùng rùng kéo tới thì nước thuỷ triều ở bãi Sao Sa đã rút cạn và dân Phương Cần đã khiêng cây gỗ về làng.

          Khiêng được cây gỗ thiêng, dân Phương Cần thuê thợ giỏi tạc, tượng Tứ Vị Thánh Nương trong đó có tượng Thái hậu Dương Nguyệt Quả (nay vẫn còn).

          Do đó hàng năm vào dịp lễ hội, dân Phương Cần có tục “chạy Ói” là để nhớ lại sự kiện mang tính huyền thoại này. Đến ngày lễ Hội, tại hòn Ói có cắm những cọc tiêu. Bốn giáp của làng Phương Cần đều cử trai tráng khoẻ mạnh của giáp mình ra chạy giải. Những người chạy giải đều đóng khố, đầu chít khăn thủ rìu khác nhau để phân biệt là người của giáp nào. Ai chạy nhanh đến hòn Ói nhổ cọc tiêu đem về trước, sẽ được giải. Dân Phương Cần quan niệm rằng, giáp nào thắng trong cuộc “chạy Ói”, năm đó sẽ làm ăn tấn tới.

  1. Tôn trọng người già.

       Tôn trọng người già là nét đẹp có từ lâu của người dân Việt, trong đó có người dân Phương Cần. Đó là nét đẹp trong văn hoá cư xử vốn đã có từ xưa, không những được nhân dân tôn kính mà còn được nhà nước phong kiến quan tâm. Thời Nguyễn, đời Thiệu Trị quy định như sau:

          Lên 60 tuổi vọng lão vào làng, năm sau làng mừng 1 quan tiền và trầu rượu, từ đó cho miễn mọi  tạp dịch và không phải đóng thuế thân.

          Lên 70 tuổi làng mừng 2 quan tiền, một áo lụa đỏ, một bức trướng.

          Lên lão 80 tuổi, làng mừng 3 quan tiền, một áo lụa bạch.

          Lên lão 90 tuổi, làng mừng 5 quan tiền, một áo vải quyến.

          Thọ 100 tuổi (bách tuế vi kì), hiếm lắm, cả làng đến chúc mừng, tặng những gì thì tuỳ gia đình giàu nghèo, song nhất định hơn lão 90 và không phải chỉ làng mừng mà các giáp đều mừng, các gia đình trong làng cũng mừng.

       Trước cách mạng, do nhiều yếu tố tác động tuổi thọ bình quân chưa đầy 40 tuổi. Bởi thế các cụ sống đến 60, 70 là khá lắm rồi, tuổi được coi là gần đất xa trời. Vì thế không phải ngẩu nhiên, mà xưa kia, người ta cho tuổi lục thập là “nhĩ luận”, “chế quan y” (đóng quan tài), “trụ tượng ư hương”, (không phải gánh vác, việc làng, việc xã, việc vua quan và đóng thuế thân nữa).

       Yến lão, lễ mừng thọ cho người già. Là một tập tục cổ truyền, một ngày hội đầu xuân chứa chan tình cảm, biểu hiện truyền thống “ kính lão đắc thọ” của quê hương. Ngày nay được sự quan tâm của Đảng bộ, HĐND, UBND, UBMTTQ, các ban ngành và đoàn thể địa phương. Yến lão, mừng thọ vẫn được duy trì do Hội người cao tuổi đảm nhiệm, tổ chức vào dịp đầu xuân,  vui vẻ có tặng quà cho các cụ theo quy định của trên.

  1. Cổ vũ việc học.

       Từ xưa đến nay người Phương Cần luôn có những quy định động viên con cháu trong làng chăm học, gắng học trước là để biết đọc, biết viết để giữ gìn phẩm chất, nhân cách, sau là thi cử đỗ đạt, trở thành người có tài giúp ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Bởi thế, từ xưa những người đi học được xã hội rất quý trọng gọi bằng cái tên là anh học, anh nho và nếu được dự thi thì gọi là anh khoá.

       Những người đi học được miễn phu phen tạp dịch khi đã đến tuổi gánh vác việc làng, việc nước (18 tuổi trở lên). Được miễn cả thôn dịch và quan dịch dài ngày.

       Người đỗ đạt lúc vinh qui được làng xã đón rước tử tế, vì đã đem lại vinh quang cho làng. Được làng mừng và giúp đỡ khi ăn khao; được làng cáo yết với Thành hoàng và các vị tiên hiền ở nhà thánh, ngoài việc gia đình cáo yết với tổ tiên. Đỗ tú tài được cáo yết ở văn từ của làng và của tổng, đỗ cử nhân được cáo yết tại văn từ huyện. Khi đã vọng làng, ăn khao và cáo yết người đỗ đạt được ngồi chiếu trên.

      Văn khoa tiến sĩ ngồi cùng chiếu với văn võ quan viên nhất nhị phẩm và người thọ tuổi 100.

     Văn khoa phó bảng ngồi cùng chiếu với văn võ quan viên tam tứ phẩm và người thọ tuổi 90.

      Văn khoa cử nhân ngồi cùng chiếu với văn võ quan viên ngũ lục phẩm và người thọ tuổi 80.

      Văn khoa tú tài ngồi cùng chiếu với văn võ quan viên thất, bát, cửu phẩm và người thọ tuổi 70.

    Văn khoa ấm sinh, giám sinh, sinh đồ, nho trưởng ngồi cùng hạng cùng chiếu với võ biền tử, chánh phó tổng, chánh phó ban, lý hào và người thọ tuổi 60.

       Người đỗ đạt khi qua đời được quan viên mặc áo, đội mũ trắng đến nhà làm lễ tế và khi tống táng thì đưa đến tận huyệt để tỏ ý hậu đãi người khoa bảng qua đời. Sau đó tuỳ theo học vị và chức vụ cao thấp mà được thờ ở văn từ làng, xã hay văn từ hàng tổng, hàng huyện.

       Những quy định cụ thể ghi trong khoán ước làng đã động viên kịp thời con em trong làng xã ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức, trở thành người tài đem lại vinh dự cho bản thân, gia đình và làng xã.

       Ngày nay, được sự quan tâm đúng mức của Đảng ủy, HĐND, chính quyền, các ban ngành và đoàn thể địa phương cũng như gia đình, dòng họ. Việc khuyên răn con cái học hành đã có nhiều kết quả tốt. Với những quy định, Nghị quyết cụ thể: thưởng cho những học sinh đỗ đạt, tuỳ theo mức. Xã có hội khuyến học; dòng họ có quỹ khuyến học cho những em học giỏi, đỗ đạt, những em nghèo vượt khó vươn lên trong học tập. Dù mức khen thưởng với giá trị vật chất còn ít nhưng đã động viên lớn tinh thần con em trong địa phương cố gắng vươn lên học giỏi. Nhiều năm qua, trong xã có nhiều em học giỏi và đỗ đạt vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.

  1. Thờ phụng tổ tiên.

       Trải qua hàng ngàn năm việc thờ phụng tổ tiên qua nhiều thế hệ. Đã là người phải biết ơn nghĩa sinh thành, công nuôi dưỡng và có hiếu với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Cây có gốc mới có cành xum xuê hoa lá. Nước có nguồn mới có biển rộng sông dài, con người có tổ tiên mới có mình được: Gia phả các họ mở đầu của cuốn gia phả đều ghi “thiên lưu vạn phái thuỷ đồng nhất nguyên, thiền kha vạn diệp mộc đồng nhất căn, nghĩa là: “Nghìn dòng, muôn lạch, nước cùng một nguồn, ngàn cành vạn lá, cây cùng một gốc “ẩm hà tư nguyên” (uống nước nhớ nguồn), bỏ tổ tiên, không thờ phụng tổ tiên, tức là quên nguồn gốc, là bất nghĩa bất nhân. Bởi vậy việc thờ phụng tổ tiên là giá trị tinh thần nhân văn cao cả, là niềm tự hào “họ ta” “tổ tiên nhà ta”, đó là sự gắn bó của huyết tộc, làm bền vững tính cộng đồng nơi hương thôn.

       Trên một mảnh đất nhỏ, có rất nhiều nhà thờ họ, thờ những người có công đức, đỗ đạt, ghi tạc tấm lòng trở về cội nguồn của con cháu. Những họ lớn có nhà thờ riêng, những họ chưa có nhà thờ, nhờ nhà trưởng tộc. Các tục tập của làng có thể bị bãi bỏ, nhưng các ngày tế tổ, xây dựng nghĩa trang, tu sửa nhà thờ, đi tìm gốc tích của dòng họ và tìm những cành nhánh thì không bao giờ bỏ. Có những cụ cao niên không quản đường sá xa xôi đã vào Nam ra Bắc quyết tâm tìm cho được gốc tích của mình.

lsqp2

  1. Tín ngưỡng Thành Hoàng.

       Thành hoàng là những người có công khai canh, đỗ đạt làm quan hoặc lập nên làng xã; những vị đã cứu giúp phù hộ cho xã qua cơn hiểm nghèo như: (đánh giặc ngoại xâm, đánh giặc tàu ô, diệt thú dữ), góp phần công lao, uy tín của mình để làm giàu cho làng xã. Được nhân dân tôn là những vị thần cai quản phù hộ độ trì cho dân làng được an khang thịnh vượng.

       Người dân Phương Cần thờ cả hai loại Thành Hoàng: Thiên thần và nhân thần.

       Thiên thần có: Sơn thần và Thần Nông trên núi Hùng Vương, Thần Cá Voi ở đầu cửa Lạch, Thần Hạt Lúa ở Cồn Miệu.

       Nhân thần có: Tứ Vị Thánh Nương ở đền Cờn; Đế Bính và các trung thần ở đền ngoài; Sát Hải Đại Vương ở cửa Lạch; Thờ Quan Công trên núi Hùng Vương (hay gọi là Võ Miếu).

       Tứ Vị Thánh Nương, theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, năm Trần Hưng Long thứ 12 (1312) đức thánh đền Cờn được phong là “Quốc Gia Nam Hải Đại Càn thánh nương”. 

   Tứ Vị Thánh Nương là một nhân thần. Không chỉ được thờ ở đền Cờn mà được thờ ở rất nhiều nơi trên đất nước ta. Theo ‘Bách thần ký”, cả nước có tới 1070 đền miếu thờ Tứ vị.

       Thần Tứ Vị, bắt nguồn từ một sự kiện lịch sử được huyền thoại hoá nhằm ca ngợi lòng yêu nước cùng tiết hạnh của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Nhân vật phụ nữ đó, “sau khi mất được phong làm Hải Thần”, trở thành một thần Nước linh thiêng nên được thờ ở 12 cửa biển và cả những vùng sông nước khác.

       Thần Nước vừa gắn với xã hội nông nghiệp – vừa gắn với ước vọng được che chở, được bảo vệ của những người làm ăn trên sông nước; Ngư dân khi ra biển ra khơi, vào lộng; của những người buôn bán bằng đường sông, đường biển, vào Nam ra Bắc buôn bán bằng thuyền mành ở Phương Cần.

       Thờ thành hoàng, biểu thị lòng kính của người nông dân đối với cái thiêng, “quý ơn trọng nghĩa”. Thành hoàng là phúc thần. Tín ngưỡng Thành hoàng đóng vai trò liên kết giữa những người trong một cộng đồng làng. Đó là nơi hội tụ tâm linh.

       6.Tín ngưỡng tôn giáo

       Đạo phật:

       Phật giáo được truyền bá mạnh mẽ vào Phương Cần khoảng sau thế kỷ XII, thời hậu Lê khi chùa Càn được xây dựng, được trùng tu lại thời vua Gia Long (1802).

       Từ thời Lý – Trần đến Lê-Nguyễn, nhiều truyền thuyết dân gian, thần Phả đền Cờn,v.v… đã nói tới sự xuất hiện của Phật giáo ở vùng Lạch Cờn.

       Thần Phả ‘Đại Càn Thánh Mẫu’ nói tới “Vị sư già ở chùa” cứu sống mẹ con Thái hậu nước Tống.

       Vua Gia Long tặng Kiệu và tràng hạt cho thần Tứ Vị để thần “hướng theo tính từ bi, bác ái của nhà phật”. “Từ đó trong lễ hội làng, vào ngày 16 tháng Giêng có việc rước thần lên chùa”.Vè lễ hội có câu:

“15 nghiềm quân, 16 lên chùa…

       Tín đồ theo đạo Phật ở Phương Cần có từ rất sớm, trước khi thần Thành hoàng Tứ Vị xuất hiện. Trong một thời gian dài đạo Phật bị lấn át bởi việc thờ thần. Tuy nhiên việc thờ Phật cùng giáo lý vẫn tồn tại, thậm chí có sự phản kháng, đấu tranh để phát triển.

       Khuyến thiện và bác ái là tư tưởng cốt lõi của đạo Phật. Từ xưa đến nay người dân Phương Cần đã kết tinh của Phật giáo trong cuộc sống của mình.

       Kiến trúc đền, chùa cổ ở Phương Cần khá phong phú, đa dạng về số lượng và loại hình, phản ánh sự phát triển của tín ngưỡng và tôn giáo nơi đây. Nghệ thuật kiến trúc điêu luyện, đạt tới đỉnh cao của kiến trúc Lê – Nguyễn. Đặc biệt là nghệ thuật chạm khắc, tinh xảo tứ linh – tứ quý:

                   “Nét chạm khắc của người nô lệ

          Dấu tài hoa trong mắt chim muông…”

          Nho giáo:

          Làng Phương Cần di tích Nho giáo nổi bật lên là đền Thánh và Văn hội làng.

          Nhà thánh hay gọi là đền thánh là nơi thờ đức Khổng Tử và các bậc khoa bảng ở trong làng.

          Đền thờ đức Khổng Tử được xây dựng trên núi Hùng Vương. Năm 1936 dời về dựng gần đền Cờn gọi là Đình Tháng Ba.

          Việc tế thánh do văn hội làng đảm nhiệm. Hàng năm tế thánh Khổng Tử cùng các vị khoa bảng của làng ở nhà thánh vào dịp tế kỳ phúc 21 tháng Ba âm lịch. Hội tế Thánh Khổng Tử cùng các môn đồ và các vị khoa bảng của làng, lễ diễn ra vào ban đêm, hành lễ xong trời tảng sáng. Các cụ già cao niên giải thích: tế sớm để tránh ruồi nhặng vì chí thánh thiên sư Khổng Tử, Phu Tử ưa sạch sẽ, xong lễ không gian nhà thánh lại tĩnh mịch. Bởi vậy xưa kia các cụ có câu: “Im lìm như nhà Thánh tế rồi”. Thông qua hoạt động của Hội tư văn, tư tưởng nho giáo được truyền thụ đến các thành viên trong gia đình. Đạo nho khuyên răn mọi người không nên mưu lợi cho cá nhân mà phải quan tâm đến cộng đồng xã hội.

          Văn hội là những người có cắp sách đến cửa Khổng, sân Trình qua một số năm, học đến sách nào đó và sống có tư cách, có đạo đức. Hội không những tế thánh, cầu khoa tôn vinh những người học giỏi, thi đỗ, làm nên, sống có lương tâm, bảo vệ cho cho những người có đạo thánh hiền, duy trì được thể giáo, bảo vệ hội và nghiêm trị những hội viên tha hoá.

          Văn hội làng có thể coi là những tín đồ của Nho giáo. Thông qua Văn hội làng, những tư tưởng Nho giáo đến với mọi thành viên trong làng xã. Một số người đỗ đạt cao trong các kỳ thi, được bổ làm quan của các nhà nước phong kiến. Phần đông dân chúng học chữ Nho ít, hoặc không biết chữ Nho nhưng dưới chế độ phong kiến, khi Nho giáo trở thành tư tưởng độc tôn của nhà nước, thì tất cả mọi người dân trong làng ít hay nhiều đều chịu ảnh hưởng của Nho giáo, Nho giáo được truyền bá vào sớm, trong làng nhà tế thánh, Văn hội làng đều có đủ, nhưng tư tưởng của nó không bén rễ sâu sắc trong tâm thức của mỗi người dân. Có thể thấy điều đó qua sự phát triển của nghề nghiệp. Đạo nho khuyên mọi người đừng mưu lợi cho mình và xếp “Sĩ, Nông, Công, Thương”, “Thương” được xếp sau cùng trong bốn nghiệp. Trong khi đó nghề buôn ở Phương Cần là nghề chính của dân cư. “Sĩ” được xếp ở hạng đầu. Học để làm quan là lý tưởng của Nho sĩ. Trong khi dân làng lấy việc “học đạo lý làm người” là quan trọng nhất.

  1. Giáo dục.

          Phương Cần là vùng đất có truyền thống hiếu học. Từ xưa đã có nhiều người học hành, thi cử đỗ đạt.

          Trước khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn của nhà nước phong kiến-Văn hội làng đã khuyến khích học chữ Hán.

          Trải qua các đời từ Lý, Trần đến Lê, Nguyễn có nhiều người thi đậu. Tính ra có 7 vị đỗ cao (cử nhân trở lên). Nhiều người đỗ thấp hoặc không đỗ đã chọn nghề dạy học. Họ mở các lớp học tư dạy chữ Hán trong các gia đình. Phần đông con em lao động chỉ học được một số chữ Hán ở các lớp học tư của các thầy đồ. Những điều tốt đẹp của Nho giáo đến với họ chỉ ít ỏi. Nhưng đạo lý làm người của người Việt nói chung, làng Phương Cần nói riêng lại sâu sắc hơn nhiều.

          Những người đỗ đạt:

          Đời Lê: Năm Quang Hưng (1578-1599), Hoằng Định (1601-1619), Hoàng Hà 19 tuổi thi hương trúng tứ trường, là danh sĩ đương thời. Kinh sư có câu ca: “Nghệ An Hoàng Hà, Thanh Hoa (Thanh Hoá) Lương Chí”

          Khoảng năm Cảnh Hưng (1740-1786), Nguyễn Quý Liên, Nguyễn Quý Sĩ, thi hương đều trúng.

          Đời Nguyễn: Gia đình họ Trần, ông cháu đều thi đậu. Ông Trần Đăng Minh đậu năm 1841, cháu Trần Đăng Đạo, Trần Đôn Kính, Trần Đoan Thận và Phan Tiên Sinh đều đỗ cử nhân.

          Trong số đó Hoàng Hà là vị Quốc sư, dạy ba đời vua. Theo “Quỳnh Lưu Phong Thổ Ký” chép:

          “Hoàng Hà là người xã Phương Cần(1), năm 19 tuổi đỗ tứ tường (tức cử nhân), làm quan trị phủ Quốc Oai (Sơn Tây), sau làm Quốc Sư ba triều Lê Thế Tông (1573-1600), Lê Kính Tông (1600-1619), Lê Thần Tông (1619-1643). Ông lấy tên hiệu là “Cần giang tiên sinh”.

          Với tinh thần hiếu học đã giáo dục con em trong làng xã, giữ gìn phép tắc, kỷ cương của xã hội, giữ thuần phong mỹ tục, nếp sống văn hoá trong làng xã. Một số người được biểu dương, khen thưởng, tuyên dương trở thành tấm gương trong xã hội. Đáng tôn vinh nhất như: tiết phụ Hoàng Thị Nguyên. 18 tuổi kết duyên với Bạch Trang Linh, mẹ chồng dữ tợn, thời sum họp thì ít, ngày ly biệt thì nhiều. Năm 24 tuổi sinh con trai tên Chính. Chồng đi lính chết ở Hải Dương, thị đi lấy hài cốt về quê mai táng. Hết tang nhiều người cầu hôn, thị đều giữ chí không đổi, đến bạc đầu không khiếm khuyết gì. Tình cảm rất đáng thương, năm nay (1888) sáu mươi ba tuổi.

          Người được ca ngợi như một huyền thoại trong “Nhị thập tứ hiếu”. Là hiếu tử Lê Trình. Lúc nhỏ cũng được cha mẹ cho ăn học tử tế, lớn lên tính tình thuần cẩn, có đức hạnh, gia đình vào bậc trung lưu. Ngày thường, khi nóng lạnh, sớm chiều luôn thăm hỏi, làm cho cha mẹ được vui lòng.

          Chẳng may người mẹ bị bệnh đau dạ dày, đã chạy chữa khắp nơi, thầy thuốc xa gần đều tìm đến, nhưng không khỏi. Một thầy thuốc bảo: có lẽ ăn nhầm thịt công, cần phải có dạ dày con nhím mới chữa khỏi được. Không quản ngại vất vả khó khăn, Lê Trình đi vào rừng núi tìm kiếm. Nhưng hết ngày nọ đến ngày kia không được. Một hôm, Lê Trình vào cầu đảo đền thần Bạch Y ở Hoàng Mai (Yên Phú xã Mai Hùng). Sáng hôm sau Lê Trình bắt được một con nhím khá dễ dàng. Đem về làm thuốc chữa bệnh cho mẹ, chẳng bao lâu bệnh đau dạ dày của mẹ khỏi hẳn.

          Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), giặc biển vào Phương Cần cướp của bắt người. Chúng bắt cha buộc Lê Trình phải đem 150 lạng bạc đến chuộc mới tha cho về. Dốc hết gia tài, Trình chỉ kiếm được 90 lạng bạc. Giặc không bằng lòng, muốn đem cha Trình ra giết. Trình kêu khóc thảm thiết và xin chết thay cha. Giặc động lòng thương, không lấy bạc mà tha cho. Đẫn bố về nhà, nghĩ rằng sống ở Phương Cần sẽ còn gặp nhiều nỗi bất hạnh, Trình dời nhà đến phủ Diễn Châu, làm nghề buôn bán để nuôi cả gia đình.

          Hiếu tử Lê Trình trở thành tấm gương để mọi người khuyên răn, giáo dục con cái ăn ở có hiếu với cha mẹ. Trong “Quỳnh Lưu phong thổ ca” có đoạn nói về Lê Trình:

          Lê Trình người xã Phương Cần,

          Đạo con phụng dưỡng cha, con vẹn tuyền.

          Mẫu thân đau bụng kinh niên,

          Thuốc tiên mật nhím cầu đền Bạch Y.

          Săn ngay được nhím cũng kỳ,

          Tấc lòng con hiếu có khi cảm thần.

          Chẳng may giặc bắt phụ thân,

          Vội đem hết của kêu van chuộc người,

          Hung đồ cũng phải ngậm ngùi,

          Tha người trả của, ngỏ lời ngợi khen.

          Ngoài số người đỗ cao, trước cách mạng tháng Tám ở Phương Cần có nhiều người học chữ Hán, từng đi thi ở trường tỉnh, có người đỗ tới tam trường như cụ: Nguyễn Cao Siêu…

     Dù đỗ hay không, các vị đều nêu cao tinh thần hiếu học trước con cháu, đã mở lớp học chữ Hán (về sau cả chữ Quốc ngữ) ở Phương Cần và nhiều làng khác.

          Một số thầy đồ ở Phương Cần trước cách mạng như: Nguyễn Cao Siêu, Ấm Sinh, Hoàng Đức Thuỳ, Hồ Học Dư, Nguyễn Đức Nghi, Mạch Hiệng, Hào Nhuỵ(1)…

          Đầu thế kỷ XX, việc thi cử chữ Hán bị bãi bỏ. Thực dân Pháp mở trường dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp và đôi ba chữ Hán với ý đồ “chinh phục tinh thần”. Chúng cho xây dựng sáu trường sơ đẳng ở Quỳnh Lưu, trong đó Phương Cần có một trường.

          Hiện nay di tích trường học còn lại ở Phương Cần là: Hương trường, trước ở Đình chợ Càn. Năm 1936, dời về Đình Tháng Ba ở gần đền Cờn gọi là trường học Bến Đò. Bàn ghế hàng chục bộ bằng gỗ lim. Dưới mái trường cổ kính này, nhiều cán bộ cách mạng, doanh nhân kinh tế ở Phương Cần đã trưởng thành góp phần đấu tranh, bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước.

  1. Văn tự Hán, Nôm, huyền thoại và Văn học dân gian

          Hiện nay, nhiều loại văn tự chữ Hán, chữ nôm phản ánh về tín ngưỡng và về làng như: thần Phả đền Cờn và các đền miếu khác, gia phả các họ, sắc phong thần, sắc phong võ quan, câu đối, đại tự, thơ vịnh đền Cờn, Thúc ước làng, Văn bia, Văn tế thần, Văn tế thánh,v.v… ở Phương Cần vẫn còn được lưu giữ.

          Văn tự Hán, Nôm ở Phương Cần phong phú và đa dạng, phản ánh các loại hình tín ngưỡng, các mặt kinh tế và đời sống xã hội của làng trong lịch sử. Trong đó nổi bật nhất là bản “Thúc ước làng Phương Cần” do cử nhân Nguyễn Quý Sĩ soạn vào cuối thế kỷ XVIII. Đây là bài văn phú chữ Nôm, phản ánh nhiều mặt sinh hoạt xã hội của làng cuối Lê đầu Nguyễn. Tác phẩm có giá trị về cả nội dung và nghệ thuật, được đọc trong lễ hội Kỳ phúc hàng năm.

          Huyền thoại: Nhân dân Phương Cần còn lưu truyền nhiều huyền thoại về đền Cờn như:

          Đền Cờn với giấc mộng Trần Anh Tông. Tân Hợi năm thứ 19 (1311) đời vua Trần Anh Tông, “Mùa đông tháng 12, vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành, vị vua nước ấy là Chế Chí phản trắc(1).

          Thuyền quân vào cửa biển Cần Hải, đóng quân ở đây, đêm chiêm bao thấy có thần nữ khóc và nói: “Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp sóng gió trôi dạt đến đây đã lâu, nay thấy bệ hạ đem quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công”. Khi tỉnh dậy vua cho gọi các bô lão trong vùng hỏi sự thật, ban tế một tuần rồi đi, thì biển không nổi sóng, tiến thẳng đến thành Chà Bàn, bắt được vua chiêm đem về”(2).

          Tháng 6 năm sau (1312) đoàn quân chiến thắng trở về, vua có vào đền Cờn tạ ơn, phong thần nữ là “Quốc Gia Nam Hải Đại Càn Thánh Nương” sai “quan hữu ty lập đền thờ, tứ thời cúng tế”(3).

          Huyền thoại chạm lại ngựa đá. Từ dưới sông Mai Giang đi lên cửa Cờn, qua mấy bậc tam cấp bằng đá, có hai voi đá, rồi tiếp đến ngựa đá đứng chầu hai bên đền. Ngựa đá nay đã mất nhưng voi đá vẫn còn. Trong nhân dân Phương Càn từ xưa còn lưu lại một truyện thần kỳ đó là: Ngày ấy đền Cờn có một người cung tiến hai con ngựa đá. Một đêm nọ, trưởng thôn nằm chiêm bao thấy “Thánh Bà” gọi đến, bảo: “Đôi ngựa đá cung tiến ấy thợ đục vụng lắm. Nay có thần Biển đang làm cung điện, toán thợ này khéo tay, ta sẽ nhờ họ chạm trổ lại”. Vài hôm sau, nước dâng cao, ngựa đá tự dưng biến mất. Được vài chục ngày lại thấy hai ngựa đá đứng ở chỗ cũ, nhưng lông bờm, lông đuôi, mặt ngựa, chân ngựa, thân ngựa lúc này được xoi xỉa tỉ mỉ, tinh tế hơn, trơn tru hơn, đẹp đẽ hẳn lên. Dân làng vô cùng kinh ngạc, từ đó đền càng linh thiêng hơn

          Thơ vịnh, câu đối, đại tự. Nhiều bậc văn sĩ nổi tiếng như: Nguyễn Du, Lê Thánh Tông, Phan Huy Ôn… đã ca ngợi vị thần đền Cờn. Qua đó có thể thấy được địa thế và cảnh quan tươi đẹp, hùng vĩ của làng Phương Cần. Như trong bài thơ Lê Thánh Tông:

          “Nhớ khi đến trước cửa Cờn.

          Một dòng nước trắng chảy quanh biển trời”.

          Văn học dân gian cũng khá phong phú. Tại kỷ yếu hội thảo văn học lần thứ nhất ở miền Trung và hội thảo văn học dân gian Nghệ Tĩnh, lần II. Đã có nhiều ý kiến cho rằng Quỳnh Phương là một trong những xã của vùng văn học dân gian Nghệ Tĩnh. Tuy có một số điểm phải bàn, nhưng những ý kiến đó đều có cơ sở. Từ xưa ở Phương Cần đã có nhiều truyện cổ, truyền thuyết phản ánh về vùng đất cổ như:

          Truyện về ông Đùng (ông Khổng lồ). Tương truyền dãy núi Xước chạy từ xã Quỳnh Lập ra sát địa phận Thanh Hoá là do ông dắt những ngọn núi lẻ tẻ xếp lại mà thành. Đã nhiều lần, ông dùng chạc (dây rừng) bện dóng gánh núi lấp biển, mở rộng thêm đồng bằng. Hòn Biện Sơn ở Tỉnh Gia (Thanh Hoá) và hòn núi Đồ có mỏm đầu rồng ở Quỳnh Lập là do một lần gióng đứt, rú rơi, ông để lại đó.

          Hiện nay, dấu chân ông Đùng còn để lại trên một phiến đá ở bờ biển dưới chân núi Hùng Vương.

          Truyện về đức thánh Tứ Vị, tức Đại Càn Thánh Nương được thờ ở chùa Càn. Cuối niên hiệu Trùng Hưng (1278-1279) quân Tống bị quân Nguyên Mông đánh tan tác ở Nhai Sơn, Tống Bính Đế cùng bề tôi, quân lính tuỳ tòng hơn 800 người bỏ chạy. Thế cùng lực tận, lại bị quân giặc đuổi theo rất gấp, vua tôi nhà Tống phải theo trung thần là Trương Thế Kiệt, lên thuyền trốn ra biển. Nhưng chẳng may sóng to gió lớn nổi lên, Bính Đế, Trương Thế Kiệt cùng bao quân lính chết sạch. Hoàng hậu và hai cô con gái may sao bám vào được một mảnh ván. Sóng gió đã đưa ba mẹ con dạt vào cửa Cờn. Một nhà sư trụ trì một ngôi chùa gần đó, buổi chiều đi dạo trên bãi cát ven biển, thấy ba người đã thập tử nhất sinh, liều mình ra cứu. Sư cho ba mẹ con vào ăn ở trong chùa và nuôi tử tế. Được mấy tháng ba mẹ con đã lại sức, trở nên béo tốt, nhất là vẻ mặt của Hoàng hậu thật tuyệt đẹp. Sư động lòng trần tục muốn tư thông. Bị Hoàng hậu cự tuyệt, xấu hổ quá, sư gieo mình xuống biển chết. Hoàng hậu than rằng: “Chúng ta nhờ sư mà được sống, nay sư vì chúng ta mà phải chết, sao nỡ yên tâm”. Hoàng hậu nói xong, bèn cùng nhảy xuống biển tự tử. Mất mẹ, hai công chúa khóc than thảm thiết, nghĩ rằng sống bơ vơ ở nơi đất khánh quê người, không cha mẹ, không bà con thân thích, không nơi nương tựa, rồi cùng gieo mình xuống biển chết theo. Cả bốn người chết, thi thể nổi lên vẫn y nguyên, một mùi thơm như lan quế toả ra, về sau rất linh thiêng, dân xã lập đền thờ làm thần, đặt tên xã mình là Hương Cần. Vì thờ cả bốn người, nên nhân dân thường gọi đền  thờ “Tứ Vị”.

          Ca dao, dân ca, vè, tục ngữ, truyện dân gian xuất hiện thời phong kiến, ca ngợi các vị thần và các nghề nghiệp của làng. Trong đó có các truyện vè dài như: “vè ông Ninh”,  “vè lễ hội đền Cờn” được lưu truyền rộng rãi. Trước đây trong dịp đầu xuân, người dân thường hát các bài vè này theo điệu trống rất say xưa, hấp dẫn.

          Ca dao cũng có nhiều loại mang rõ sắc thái địa phương. Có những bài, những câu với địa danh, cảnh vật và con người Phương Cần. Bộc lộ những cảm nghĩ, những nhận xét về quê hương, xứ sở của con người nơi đây.

          Trong số ca dao nói về tình yêu cũng không ít bài gắn với làng mạc, chợ búa, thể hiện tình cảm da diết, sâu lắng:

          Quê anh là đất Phương cần,

          Có dừa xanh mọc quanh sân, khắp làng.

          Mùa hạ mát mẻ dị thường,

          Nước dừa mát rượi, con đường thì nhâm.

          Hỡi bạn tri ân,

          Hỡi bạn xa gần,

          Muốn quanh năm sung sướng nhón chân theo anh về.

          Từ khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta. Bao sĩ phu, nhà nho ở Phương Cần đã tham gia các phong trào yêu nước. Nhiều người vừa trực tiếp chiến đấu vừa làm văn thơ. Thơ văn của họ mang nặng tình yêu thiên nhiên mà đó cũng là tình yêu quê hương, tình yêu đất nước. Trong đó có bài thơ viết về Cần Hải

          Cần Giang thiên ngoại vọng du du,

          Nhất sắc trừng ngưng tiếp tố thu,

          Bàng ngạn lô di yên nhạn trạch,

          Lân ba vọng cổ phiếm ngư châu.

          Anh Tông mộng tỉnh phong ba thiếp,

          Thánh mẫu kinh quang phủ nguyệt phù.

          Chử thượng nhàn du lai thừa hứng

          Cô tâm vọng xứ áp sa âu.

Dịch nghĩa: Cửa Cờn

          Bầu trời Cần Giang trông dài dằng giặc(1)

          Nước một màu trong veo tiếp với màu trời thu

          Bên bờ sông, xóm làng nhà cửa yên vui,

          Trên biển chài lưới lao xao thuyền cá.

          Vua Anh Tông tỉnh mộng, sóng gió lặng tắt,

          Đền Thánh Mẫu linh thiêng, trăng nước chơi vơi

          Dạo chơi hứng thú trên dọc bãi sông,

          Chim trời giúp ta quên đi mọi bận rộn trong lòng.

Dịch thơ:

          Cần Hải chân trời xa típ tắp,

          Trời thu nước biếc, biển mênh mông

          Thuyền chài tung lưới đè cơn sóng,

          Xóm bến trương rèm đón gió sông.

          Trăng nước chung say đền Thánh Mẫu,

          Phong ba lay tỉnh mộng Anh Tông.

          Đàn cò trước bãi đang đùa giỡn

          Như muốn cùng ai cởi tấc lòng.

                                  Võ Hồng Huy dịch

          Tóm lại văn học dân gian ở Phương Cần vừa mang sâu sắc tính đồng nhất của cả nước về ngôn ngữ, cấu trúc, tính cách thể hiện… vừa mang sắc thái của người dân nơi đây. Nguồn văn học dân gian đó không chỉ có cuộc sống cần lao, có dấu vết lịch sử, có đấu tranh vững mạnh, có nỗi lòng, niềm tin… mà còn dào dạt sức sống, dào dạt trí tưởng tượng và cũng dạt dào tấm lòng của con người Phương Cần đối với Tổ quốc, quê hương. Tự hào phần đóng góp của mình về văn học dân gian vào tài sản chung của dân tộc.

  1. Kiến trúc.

          Do chịu ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo nên ở Quỳnh Phương có nhiều Đình, Đền, Chùa. Trong đó nổi lên một số đền tiêu biểu như đền Cờn.

          Người dân Nghệ Tĩnh có câu: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”. Đền Cờn được coi là linh thiêng, có quy mô bề thế, có nhiều mảng trang trí nghệ thuật nhất của bốn đền lớn nhất ở Nghệ An.

          Đền Cờn được vua Trần Anh Tông ban sắc chỉ và cho xây dựng vào năm 1312, hàng năm “quốc tế”; Năm 1471, được vua Lê Thánh Tông cho sửa sang. Theo văn bia dựng ở đền thờ Cảnh Trị nguyên niên (1663) dựng toà ca vũ. Năm Kỷ Sửu (1769) đời Lê Hiển Tông (1740-1786) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 30, đền Cờn được trùng tu lớn, toà ca vũ được xây dựng lại khang trang. Hiện nay tại đền Cờn còn lưu giữ một  bảng khắc gỗ lớn, kích thước khoảng 0,60 x 0,40m, ghi rằng: “Lê triều Cảnh Hưng tam thập niên, Kỷ Sửu niên, phụng Đại Lý tác; tam nguyệt sơ tứ nhật khởi công, bát nguyệt sơ nhị nhật hoàn thành”, nghĩa là: “Triều Lê Cảnh Hưng thứ 30, năm kỷ Sửu (1769) vâng lệnh Đại Lý làm, khởi công ngày mùng 4 tháng 3 đến ngày mùng 2 tháng 8 thì xong”. Đời vua Gia Long vào năm 1807-1808, lại được trùng tu lớn hơn, quy mô hoành tráng là toà ca vũ. Ngoài ra còn làm thêm tiền môn.

          Trong những năm đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại Miền Bắc, đền Cờn đã bị bom đạn Mỹ phá nát, nay chỉ còn lại toà ca vũ, nếu không chúng ta sẽ biết chút ít về kiến trúc và điêu khắc đời Trần và Lê sơ tại ngôi đền cổ kính này. Trong những năm 1988 -1989, nhờ có chủ trương của huyện đền Cờn được khôi phục và nay trả lại hình dáng như xưa.

          Đền Cờn được làm trên đồi Quạ (nên còn có tên là đền Quạ) trước mặt là sông Mai Giang, hai bên có hai đồi nhỏ nhô cao, giăng dài như hai cánh phượng. Tại hai đồi có hai cái giếng, nhân dân cho đó là mắt phượng. Bên kia sông Mai Giang là núi ba Voi Dị Nậu (Quỳnh Dị), sau đồi Quạ là biển. Vị trí ấy được miêu tả trong bài thúc ước.

          “Tiền hà hậu hải an bài,

          Hữu hổ tả long oanh nhiễu”,

                   “Núi chầu qua, du dương lớp xớp, nghìn non trở lại triều đường; Sông kéo đến, khúc uốn quanh co, muôn nước thu về một nẻo”.

          ‘Quy sơn tự phát tích anh linh”

          “Long giá đã đặt yên miếu mạo”

          “Bể nam, nước thuỷ triều tiêu tức, ầm ầm sóng dậy tiếng uy linh:

          “Núi đất, cây cỏ mọc dầm doà, phơi phới gió đưa mùi đức giáo.

          “Chùa Càn Long, âm thanh cảnh vắng, rạng chốn như lai,

          “Núi Hùng Vương, chim gẹo hoa cười, mã miều bồng đảo…”

Trước kia đền có 5 toà, ba toà trong làm theo kiểu chữ công (I).

          Toà 1: Hậu cung, chính điện 3 gian nằm ngang, 4 vì, lợp ngói xung quanh đóng ván, cửa ra vào thượng song hạ bản trên có khuông nhẫn. Nhiều mảng trang trí trên các vì kèo.

          Toà 2: Trung điện 3 gian, nằm dọc, 4 hàng cột, hai bên thưng bằng ván, toà này nối liền hậu cung với toà 3, tức hạ điện.

          Toà 3: Hạ điện cũng 3 gian như toà 1, nằm ngang, 4 vì rộng hơn, cửa bức bàn hai bên thưng ván, có diện bảo vệ xung quanh, rộng khoảng 0,80m. Có nhiều mảng trang trí trên quá giang, oai bẩy, rường xà,…

          Toà 4: Toà ca vũ, được làm theo kiểu tứ trụ, chồng rường. Lồng nhà, chiều dài: 15,5m, chiều rộng 7,5m. Nhà có 6 vì, mỗi vì 4 cột, tất cả 24 cột, chu vi mỗi cột 1,52m, chiều cao là 4m. Các cột đều được đặt trên các hòn đá tảng dày, vuông mỗi chiều 0,70m. Nhà xây tường, cửa bức hàn; mái lợp ngói mũi hài trên những thanh rui bằng gỗ lim đóng liền nhau.

          Toà có 6 vì, nhưng không phải 5 gian mà 3 gian 2 hồi, bởi hai gian bên hẹp hơn. Tất cả các bộ phận bên trong đều bằng gỗ lim. Trừ các cột và các đường xà không chạm, còn các bộ phận khác đều có đề tài trang trí đa dạng. Bốn quá giang chạm 4 hình khác nhau: cái thì chạm lưỡng long triều nguyệt, cái chạm cửu long tranh châu, cái chạm long, ly, quy, phượng, cái lại chạm hổ phù với rồng ngậm ngọc. Các rường, kẻ (oai bẩy), cổ nghé… cũng đều có chạm trỗ, nơi thì rồng, nơi thì phượng, nơi thì lá duột…

          Phần đầu 4 cột chính 3 gian giữa có 3 khuông nhẫn: khuông nhẫn gian giữa chạm nổi lưỡng long triều nguyệt, khuông nhẫn 2 bên, một bên cũng chạm nổi phượng múa rồng chầu, một bên đã bị mất, một số bô lão nói là chạm cá gáy hoá rồng. Phần đầu các cột sau cũng có 5 khuông nhẫn và có chạm.

          Ngoài hiên các đuôi kẻ được chạm công phu hơn: Cái chạm long mã phụ đồ, cái chạm phượng hoàng với tư thế đang múa, cái chạm long cuốn thuỷ có cá chép đang ngoi lên, cái chạm long quy, rồi lại chạm lưỡng long với tư thế hai con đang vờn nhau, có cái lại chạm hoa sen và lá sen bao quanh mặt hổ phù.

          Toà 5: Tiền môn còn gọi là toà nghi môn, 3 gian, 4 vì, lợp ngói, xây tường. Qua 2 cột nanh to cao, vào một cái sân lộ thiên không rộng lắm, bước lên khỏi mười một bậc đá cao, là tới toà nghi môn. Đây là nơi tiếp các quan viên và dân làng đến tế lễ. Cách mái ngói toà nghi môn một cái máng xối là toà ca vũ.

          Nhìn chung các hình chạm và nét chạm ở đền Cờn tuy chưa thật tinh tế, nhưng đều đẹp, khoẻ và có phần hấp dẫn. Tất cả những hình chạm, nét chạm ở các bức chạm trổ và cách trang trí ở đền Cờn đều mang phong cách cuối Lê đầu nguyễn, dù đền được khởi công làm từ đời Trần. Qua thời gian và bao lần trùng tu, những hình chạm nét chạm ban đầu không còn nữa. Vả lại toà ca vũ cũng mới làm xong vào đời Lê Trung Hưng và trùng tu vào cuối Lê đầu Nguyễn.

          Những bức chạm khác ở toà 1, toà 2, toà 3 nay chỉ là những mảnh vỡ do nhân dân nhặt nhặn gom lại, rất khó kê cứu.

          Những hiện vật tại đền: – Hiện nay chỉ còn lại:

          Tượng Dương Thái Hậu (tạc từ trước), tượng Hoàng hậu và 2 công chúa mới tạc lại gần đây.

          4 tượng nữ tì, nhỏ bằng đá

          1 bát hương bằng đồng, (đường kính khoảng30cm, cao 40cm).

                   1 hương án sơn son thiếp vàng

                   1 kiệu mai luyện.

                   1 “nhà vàng” trong để một kiệu nhỏ, do vua Gia Long tặng.

                   1 quả chuông đúc năm Nhâm Thân, tháng 7 ngày 20 đời Lê Cảnh Hưng (1752) chiều cao1,20m (kể cả quai, không kể quai 0,9m) đường kính 0,70m.

                   2 thạp đồng: mỗi thạp đồng đường kính 0,70m, cao 0,30m.

                   1 chõ xôi và cả nồi hông bằng đồng, cao 0,45m, đường kính 0,38m, đúc đời Bảo Đại năm thứ 9 (1934)

          Hai ông phổng bằng đá

          Bốn con nghê bằng đá

          Hai con hổ bằng đá

          Hai con voi quỳ (cỡ vừa) bên cạnh có hai quản voi bằng đá (đặt ngoài sân)

          Một bình vôi bằng sứ có 4 chữ phú- quý- thọ- khang

          Một bia đá (đặt phía trong vườn đền)

                   Ngoài ra còn một số hiện vật khác.

          Ngoài cổng cũng có hai con voi, mỗi con cao khoảng 1m. Những hiện vật này vốn là của đền Cờn, có hiện vật ở đền khác mang tới. Sự khảo sát, liệt kê theo sự bày đặt các hiện vật nói trên vào năm 1996, nay đền đã được sửa sang lại, xây dựng thêm, sự bày đặt các hiện vật, các đồ tế khí đã khác nhiều.

          Đáng chú ý nhất là đền Cờn có một phiến đá hình chữ nhật (36cm x 20cm) chạm rồng cả hai mặt. Thân rồng to mập không vẩy (hoặc có vẩy song đã bị mờ). Đầu rồng có sừng, sừng rồng tỉ lệ cân đối với thân. Mũi rồng là những đường xoáy uốn cong. Râu rồng từ mũi rồng mà ra. Những nét chạm khắc ấy có phong cách gần gũi với các bức chạm thời Trần.

          Trước đây, đền Cờn thờ cả hạt thóc to bằng cái mõ tre, bị mất vừa rồi đã tìm thấy. Vì là nữ thần “Đức Mẹ” (bà Dương Thái Hậu) nên ở Phương Cần còn gọi mẹ bằng chị, gọi chị là ả, gọi bà là mụ hoặc mệ, không dám kêu mẹ và hàng năm làng tổ chức lễ hội từ ngày 15 cho đến ngày 21 tháng 1 âm lịch.  Ngoài ra còn một số hiện vật khi bị bom Mỹ phá hoại, một số bà con trong vùng đem về nay đã trả lại.

          Đền ngoài: Được làm tại hòn Thằn Lằn. Sau hòn Thằn Lằn là núi Hạc, ở đó có rừng cây gọi là “Hạc Cấm”. Đền thờ Đế Bính và ba vị trung thần là Văn Thiên Tường, Lục Tú Phu và Trương Thế Kiệt. Mặt trước đền là biển cả.

          Đền có ba toà, làm vào đời Tự Đức. Đền bị phá vào năm 1979. Nay đã được khôi phục, hiện vật của đền có: hai ông phỗng, hai con nghê, hai ông thần canh cửa, tất cả đều bằng đá. Bốn tượng thần mới tạc, do những người có lòng từ thiện từ Thanh Hoá cúng tiến năm 1995.

          Kiến trúc đền Trong và đền Ngoài bổ sung cho nhau làm cho cảnh trí Phương Cần đã hùng tráng mỹ lệ giữa vùng nước biếc trong xanh, thêm cổ kính, có linh hồn vì có dấu vết của lịch sử, có bàn tay xây dựng tô vẽ của con người và có những mẫu chuyện đậm màu huyền thoại.

          Hiện nay đền Cờn được trùng tu, xây dựng lại khang trang, chắc chắn sẽ là một điểm du lịch hấp dẫn, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước.

          Kiến trúc nhà ở. Cũng như nhiều làng khác ở Quỳnh Lưu. Người dân Phương Cần khi xây dựng nhà, hướng nhà thường theo hướng đông nam để đón những luồng gió nồm mát rượi mùa hè và tránh những đợt gió tây nóng nực (gió Lào), trách những luồng gió mùa đông bắc buốt lạnh.   

          Dù là kiểu nhà tre, nhà gỗ hay nhà ngói thì nhà thường có 3 gian. Gian giữa còn gọi là “gian bảy” là nơi đặt bàn thờ tổ tiên. Trước bàn thờ có kê sập, phản, bộ trường kỷ để tiếp khách. Hai gian bên cạnh: đặt bàn thờ thổ công. Có gia đình đặt bàn thờ ông chú, bà cô qua đời mà không có người thờ tự. Đó cũng là gian đặt bàn thờ cha mẹ vừa mới khuất núi, chưa đến ngày giỗ đại tường hay trừ phục. Diện tích còn lại, đặt giường, phản để gia đình nghỉ ngơi ban ngày, ngủ vào ban đêm, tiếp khách, ăn uống trong những ngày giỗ tết, ngày lễ. Nhà bếp thường được xây dựng gần nhà ngang, gắn liền với giếng nước, nơi đặt nồi niêu bát đũa và các dụng cụ dùng trong bếp núc của gia đình.

          Trước đây một số gia đình, nhà ở có cột to, cửa rộng, làm bằng gỗ quý, có trang trí, mà nội thất trong nhà nào tủ chè, sập gụ, trường kỷ, mâm nồi đồng, bát đĩa cổ, hương án câu đối, cuốn thư…cũng vào loại quý, đắt tiền.

          Trước nhà là sân, tuỳ vào diện tích đất ở để làm sân rộng hay hẹp. Sân thường lát gạch, láng vôi hàu để phơi những sản phẩm gia đình thu hoạch được.

          Xung quanh nhà có vườn bao quanh. Trong vườn có trồng cây ăn quả, các loại rau…trước đây, sống theo quan niệm “làng thương hơn nương kín”, nhiều nhà không có cổng ngõ, nhà nọ cách với nhà kia không có hàng rào.

          Ngày nay đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhiều nhà ngói, nhà cao tầng mọc lên, với kiểu nọ dáng kia, đường thẳng, đường cong trang trí đủ vẻ, nội thất trong nhà toàn những thứ đắt tiền. Nhà nào cũng có cổng cao với bờ bao xung quanh kiên cố.

          Kiến trúc nhà ở tại Phương Cần: Nhà tre, nhà gỗ, nhà ngói đều chuộng bề chắc chắn, giản dị. Nhà chính, nhà phụ tương đối hài hoà với sân, vườn và cảnh trí xung quanh.

          Quỳnh Phương có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng vùng đông bắc thị xã Hoàng Mai. Có nhiều tiềm năng, nguồm lợi khai thác kinh tế biển, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ, hải sản và du lịch, nâng cao đời sống của nhân dân.

 

(1) . Trước đây gọi là xã Quỳnh Thiện. Ngày 21-4-2006, Chính phủ có nghị định số 41/2006/CP thành lập thị trấn Hoàng Mai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số xã Quỳnh Thiện.

(1) Theo thơ văn Lê Anh Tông, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr, 185.

(2) .Thiên xu; có hai nghĩa;

                                Một là: Sao đầu trong bảy ngôi sao bắc đẩu.

                                 Hai là: Bắc cực, đây chỉ nơi Thiên đế ở, hàm ý chỉ vua Tống

(3) . Lý Tông thất thế, Trương Thế Kiệt, tướng võ đem Dương Thái Hậu và Đế Bính, con bà, chạy ra Quỳnh Nhai (thuộc Quảng Đông), Quân Nguyên theo đến nơi, Lục Tú Phu tướng văn cõng Đế Bính nhảy xuống biển. Dương Thái Hậu cùng hai con gái xuống thuyền trốn, thuyền đắm, xác dạt vào cửa Cờn. Sau Trương Thế Kiệt cũng đắm thuyền chết.

(4). Khối nhục: khối thịt, ý nói dòng dõi. Dương Thái Hậu khi hay con mình là Đế Bính chết, khóc mà nói rằng: “ta sở dĩ chịu gian khổ để sống đến ngay hôm nay là vì họ Triệu Tống mà giữ gìn khối thịt ấy, nay đến nổi này ta còn mong gì !”.

(5). Minh Phi: tức Vương Chiêu Quân, cung nhân của Hán Nguyên Đế. Thời Trần chữ “chiêu” huý tên Chư Mã Chiêu, nên đổi là Minh Phi. Câu này ý khen bà Thái Hậu, vợ vua Tống, không chịu để rơi vào tay giặc.

(6). Theo thơ chữ Hán Nguyễn Du, Sdd, tr, 84.

(1) Theo Dư Địa Chí Quỳnh Lưu, NXB Văn Hoá-Thông Tin,HN. 2008, tr,67.

(2) . Theo lịch sử Nghệ An tập 1. Gs: Hà Văn Tấn viết.

([1]) Đại Nam điều lệ toát yếu Quốc sư quán triều Nguyễn biên soạn: Tiến sỹ Nguyễn Ái Giác phiên âm, dịch nghĩa NXB TP Hồ Chí Minh 1993.

 

(1) .Xã Phương Cần thời Nguyễn gồm 7 làng. Nhiều làng như:  Đông Hồi, Hải Lệ, Phương Cần đều có chi nhánh họ Hoàng. Hiện nay ở Phương Cần tím thấy tấm bia cổ, ghi chữ: “Hoàng Tướng Công”

(1) . Theo sự cung cấp của ông Nguyễn Duy Du

 

1, 2, 3. Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, tập III, NXB. Khoa học xã hội Hà Nội, 1967, tr.191, 192, Bản dịch của Cao Huy Du.

 

(1). Cần Hải: Đoạn sông Mai Giang chảy qua xã Hương Cần mà Càn Hải cũng là cửa Cờn.

Rate this post