Kỹ thuật thơ Việt Nam hiện đại và tiêu chuẩn đánh giá một bài thơ

Đầu thế kỷ XX phong trào chữ Quốc ngữ lan khắp, nhiều trí thức lớn đã trăn trở với nền tân học đã tiên phong khai sinh ra những dòng văn xuôi và văn vần mới. Nguyễn Văn Vĩnh chuyên dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine, đã tìm ra một điệu mới để dịch bài Con ve và con Kiến (1913) mà nhiều người cho Ông là người khai sinh ra dòng Thơ Mới cùng với Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Năm 1932 sự xuất hiện của phong trào Thơ Mới, là một cuộc đại cách mạng trong lịch sử thơ ca của Việt Nam. Thời kỳ đầu, các thi sĩ Thơ Mới đả phá thi pháp của thơ cũ và tư tưởng nghệ thuật cũ. Tuy nhiên, nhìn lại các tác phẩm thời kỳ này, sẽ thấy nó vẫn kế thừa, tiếp nhận và chọn lọc, dung hòa nghệ thuật của các nền tảng: Ca dao-thơ thuần Việt – thơ Trung Hoa- và văn chương phương Tây (Pháp). Cùng với việc đón nhận làn gió mới nhưng cũng không xa rời các nền tảng trên, đã được Việt hóa hàng ngàn năm. Trong cuộc cách mạng này, Thơ Mới đã bỏ đi rất nhiều hình ảnh cũ kỹ sáo mòn. Nhưng Thơ Mới cũng giữ lại và làm mới không ít các hình ảnh tuy đã cũ, về tâm hồn về tâm linh tín ngưỡng của đời sống Việt. được kết hợp và diễn tả theo một kiểu thức mới, tạo ra những cảm xúc và hiệu quả thẩm mỹ mới, lạ lùng và xao xuyến. Và đặc biệt Thơ Mới đã tiên phong trong vần điệu và một thi pháp mới lạ mà ta có được cho đến hôm nay.

Cũng như tôi, bạn cũng bâng khuâng một số kiến thức về Luật thơ được trang bị trên ghế nhà trường không thỏa mãn cho chúng ta hiểu được thế giới thi ca ngày xưa và ngày nay. Bài viết này cũng mạnh dạn trình bày lại một số thi pháp để chúng ta biết được vấn đề làm thơ dễ hay khó, và từ đây chúng ta có thể thưởng thức một bài thơ hay dở thế nào. Và nắm được vần điệu thơ để sáng tác thơ… để tránh rơi vào tình trạng tha hóa thẩm mỹ, dung tục gượng ép. Bài viết không đi vào các dòng thi ca mà chỉ trình bày kiến thức về thi pháp mà những bài thơ xưa quy định chặt chẽ: Thơ Đường luật, lục bát và song thất lục bát.

Cho nên làm thơ cũng như soạn nhạc, nếu không nắm vững nhạc lý tiết tấu và điệu thức thì chắc chắn không thể soạn những ca khúc hay được, dù đã có được năng lực thiên phú đi nữa. Các bộ môn nghệ thuật cũng vậy. Hễ nói đến nghệ thuật đều phải có quy tắc và cấu trúc, vì khi nghệ thuật phát sinh là do tư duy cấu trúc tạo thành. Bởi vậy Tản Đà tiên sinh có phán: Đờn là đờn, thơ là thơ/ Thơ thời có nhịp, đờn có tơ. Đến việc viết văn cũng cần phải có quy tắc, huống hồ là làm thơ. Quả vậy các nhà thơ nổi tiếng từ xưa đến nay đều nắm rất vững các quy tắc Luật thơ để sáng tác những vần thơ mượt mà đẹp đẽ trong vần điệu, để mãi mãi đi vào lòng bao thế hệ yêu thơ là thế. Trong thơ ca, dĩ nhiên tâm hồn và mỹ cảm là những yếu tố quyết định chất lượng bài thơ. Song thi sĩ khó mà thể hiện được ý đồ sáng tác nếu không làm chủ được thi pháp. Và nếu nói tới tác phẩm hay thì rõ ràng kỹ thuật (thi pháp) giữ một vai trò vô cùng quan trọng để giúp thi sĩ thể hiện tác phẩm, giống như câu nói nửa đùa nửa thật của danh họa Picasso: “Je ne cherche pas, je trouve!”. Cũng mang hàm ý trên: Họa sĩ không tìm kiếm vu vơ trên mặt vải, anh ta chỉ vật lộn với chính mình để thể hiện cái ý tưởng mà anh ta đã có sẵn trong đầu trước khi đặt bút vẽ. Chính qui tắc vần điệu thi pháp trong thơ cũng tạo cho thi sĩ buông vần thơ hay là thế.

Hai câu thơ dù có mượn ý từ hai câu thơ Đường “Phương thảo thiên biên bích. Lê chi sổ điểm hoa. (Cỏ thơm liền với trời xanh, Trên cành lê có mấy bông hoa.) thì bậc thầy thơ ca Nguyễn Du chỉ sáng tạo thêm chữ “trời”; chữ “Tận” và chữ “Trắng” cộng với vần điệu lục bát của Việt Nam đã tạo được hai câu…? Và mùa xuân cuối của câu sáu, gieo vần vài là chữ thứ sáu của câu tám. Sự gieo vần như vậy cùng phối hợp về thanh điệu, ngữ điệu giữa các chữ tạo thành cấu trúc có vần điệu chính đã tạo ra câu thơ rất hay.

Một đặc điểm của thơ ca, đó chính là vần điệu. Không có vần điệu là không phải là thơ ca, dựa trên nền tảng là ngôn từ, vần và điệu, để tạo thành cấu trúc. Ví dụ:

Thơ ca theo nghĩa rộng ra thì bao gồm: Thơ, phú, hò, vè… là một bộ phận văn học còn gọi chung là văn vần để phân biệt với bộ phận khác của văn học gọi là văn xuôi gồm: Tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch… Là một bộ phận văn học, môn nghệ thuật này dùng ngôn từ, ngôn ngữ làm phương tiện biểu đạt, thơ ca cũng gắn với một ngôn ngữ nhất định.

Thật ra thơ và làm thơ là một cảm xúc của con người trước một hiện tượng hay một sự kiện nào đó, rồi buông vần thơ cho riêng mình và đã ghi lại cảm xúc ấy bằng biểu tượng cô đọng của ngôn ngữ, vậy là bài thơ ra đời. Quá trình tập luyện các kỹ năng, am hiểu vần điệu của cách làm thơ (luật thơ) và vận dụng các qui luật ấy, cách gieo vần nhuần nhuyễn và ý tứ của từ ngữ súc tích đã tạo ra bài thơ.

Bài thơ trên trích ra từ bài phú thể biền ngẫu (bài “Tự” hoặc Tựa) gọi là “Đằng Vương các tự” nhân dịp một bữa tiệc lớn được tổ chức ở Đằng Vương Các. Vương Bột đọc theo yêu cầu của chủ nhân lúc ấy là đô đốc Diêm Bá Tự. Bài phú được mọi người tán thưởng, thán phục tài hoa của chàng thi sĩ trẻ. Nhưng về sau có người chê rằng “hai câu thơ đầu còn có chỗ dở”… Truyền thuyết kể rằng sau khi chết, hồn Vương Bột vẫn còn uất ức vì chưa hiểu tại sao người ta chê thơ mình, nên đêm khuya thanh vắng thường hiện hình trên sông nước, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường, miệng đọc hai câu thơ trên và hỏi: “Ta dốt ở chỗ nào xin chỉ giúp”. Nhưng ai cũng chỉ khen hay. Hồn Vương không hài lòng, mắng sĩ tử kia còn dốt hơn, đi thi khoa này ắt hẳn không đậu. Quả nhiên mấy người bị mắng đều thi rớt. Hồn Vương Bột sau đấy vẫn cứ dật dờ trên sông nước.

Vương Bột thời tuổi trẻ đã nổi tiếng thần đồng, hạ bút thành thơ. Vương Bột cũng từng lặn ngụp chốn quan trường. Làm thơ nổi tiếng được xếp vào: “Tứ kiệt Sơ Đường” (cùng với: Dương Quýnh, Lạc Tân Vương, Lư Chiếu Tân). Cha Vương Bột bị điều đi xa làm thứ sử, anh đi thăm cha, bị đắm thuyền chết, yểu thọ 29 tuổi.

Thơ Đường vốn trọng sự cô đọng của câu chữ, đặc biệt tránh việc phải dùng những hư từ, trong bài thơ này được dùng một từ lặp lại nhiều lần “Hoàng Hạc” được 3 lần. “không” được 2 lần, tạo nên hiệu quả sự ám ảnh khôn nguôi về Hạc vàng. Hoàng Hạc Lâu là một kiệt tác của Trung Hoa và cũng là đỉnh cao chói lọi của thơ Đường nói riêng và của văn học Trung Hoa nói chung, ngàn năm không ai vượt qua nổi. Thi tiên Lý Bạch đứng trước Hoàng Hạc Lâu cũng phải gác bút mà thốt lên rằng: “Đình tiền hữu cảnh đạo bất đắc/ Thôi Hiệu đề thi tại thương đằn” (trước mắt có cảnh đẹp nhưng không sao nói được, vì đã có thơ của Thôi Hiệu sừng sững ở trên đầu).

Về mặt hình thức, dễ nhận biết đây là bài thơ Đường luật thể thất ngôn bát cú (bảy chữ, tám câu) nhưng ngay trong mấy câu mở đầu, đã thể hiện một cú pháp rất đặc biệt, bởi sự phá hết niêm luật và thi pháp của thơ Đường. Về luật bằng trắc, câu 1 và câu 3 là những câu thể hiện sự phá cách táo bạo nhất. Theo luật thơ Đường, các vị trí nhị tứ lục thất trong câu thơ phải tuân thủ theo đúng quy định bằng trắc. Các vị trí 1,6,8 trong câu thơ thứ nhất đã hoàn toàn biến đổi ngược lại với quy định. Luật bằng trắc của bài thất ngôn bát cú, thơ vần bằng trong câu đầu lẽ ra phải là: BBTTTBB (Ví dụ: Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn – Bà Huyện Thanh Quan) thì câu thơ đầu của Hoàng Hạc Lâu biến thành TBTBBTT Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ. Tiếp đến, câu thứ 3 được cấu tạo với một loạt 6 thanh trắc đi với nhau, gợi lên một niềm xót xa trước sự nghiệt ngã của thời gian, của cuộc đời con người BTTTTTT Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản.

Về mặt hình thức, dễ nhận biết đây là bài thơ Đường luật thể thất ngôn bát cú (bảy chữ, tám câu) nhưng ngay trong mấy câu mở đầu, đã thể hiện một cú pháp rất đặc biệt, bởi sự phá hết niêm luật và thi pháp của thơ Đường. Về luật bằng trắc, câu 1 và câu 3 là những câu thể hiện sự phá cách táo bạo nhất. Theo luật thơ Đường, các vị trí nhị tứ lục thất trong câu thơ phải tuân thủ theo đúng quy định bằng trắc. Các vị trí 1,6,8 trong câu thơ thứ nhất đã hoàn toàn biến đổi ngược lại với quy định. Luật bằng trắc của bài thất ngôn bát cú, thơ vần bằng trong câu đầu lẽ ra phải là: BBTTTBB (Ví dụ: Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn – Bà Huyện Thanh Quan) thì câu thơ đầu của Hoàng Hạc Lâu biến thành TBTBBTT Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ. Tiếp đến, câu thứ 3 được cấu tạo với một loạt 6 thanh trắc đi với nhau, gợi lên một niềm xót xa trước sự nghiệt ngã của thời gian, của cuộc đời con người BTTTTTT Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản.

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ?

Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn thơ

Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ Thử địa không dư hoàng hạc lâu Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản Bạch vân thiên tải không du du Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ Phương thảo thê thê Anh vũ châu Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ Thử địa không dư hoàng hạc lâu Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản Bạch vân thiên tải không du du Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ Phương thảo thê thê Anh vũ châu Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Dịch thơ: Hạc vàng ai cưỡi đi đâu Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn thơ Hạc vàng bay mất từ xưa Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ? (Tản Đà – dịch)

Khái quát vần luật trên ta có một ví dụ bình giảng bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Bài này được coi là kiệt tác trong mấy nghìn năm qua của loại thơ Đường luật:

Ta thấy ở luật bằng trắc này, luật lệ cốt yếu nhằm vào các chữ 2,4,6. Nhịp thanh của câu thơ dựa vào đó mà thay đổi lên xuống. Cho nên bài thơ nào bắt đầu với một câu thơ luật bằng thì gọi là bài thơ luật bằng. Bài thơ nào bắt đầu với câu thơ luật trắc gọi là bài thơ luật trắc.

c- Chữ 1,3,5 theo phép Nhất tam ngũ bất luận nghĩa là không kể đến luật bằng trắc, được tự do. Tuy nhiên trên thực tế, chỉ chữ 1 và 3 được bất luận, còn chữ thứ 5 phải khác thanh với chữ chót của câu thơ

b- Chữ 2,4,6 theo phép Nhị tứ lục phân minh, nghĩa là 3 chữ này phải bằng, trắc, bằng hoặc trắc, bằng, trắc.

a- Chữ chót (chữ thứ 7) tùy thuộc vị trí câu thơ đối với vần thơ. Nếu câu thơ mang vần (câu 1,2,4,6,8) thì chữ ấy bằng, nếu câu thơ không mang vần (câu 3,5,7 thì chữ ấy trắc).

Trong thơ Đường luật, câu thơ nào cũng có 7 chữ, thanh luật áp dụng cho các chữ trong câu như sau:

– Thanh luật là luật chỉ định trong một câu thơ, chữ nào phải thanh bằng, thanh trắc. Chữ thanh bằng là chữ có dấu huyền hoặc không dấu, chữ thanh trắc là chữ có các dấu: Ngã, hỏi, nặng, sắc.

– Vần ở vào chữ chót câu đầu và các câu chẵn (như vậy bài thơ có 5 vần và chỉ dùng vần cước). Cả bài gieo một vần (độc vần). Vần bằng (thuộc thanh bằng)

– Niêm nghĩa đen là dán dính lại bằng chất hồ. Trong thơ, niêm là cách xếp đặt các câu thơ cho dính lại với nhau về nhịp thanh bằng thanh trắc và gây sự liền lạc mật thiết về âm điệu.

Nắng chia nửa bãi chiều rồi, Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu. Sợi buồn con nhện giăng mau, Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây. Lòng anh mở với quạt này, Trăm con chim mộng về bay đầu giường. Ngủ đi em mộng bình thường, Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ Cây dài bóng xế ngẩn ngơ, Hồn em đã chín mấy mùa thương đau. Tay anh em hãy tựa đầu, Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.

Nắng chia nửa bãi chiều rồi, Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu. Sợi buồn con nhện giăng mau, Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây. Lòng anh mở với quạt này, Trăm con chim mộng về bay đầu giường. Ngủ đi em mộng bình thường, Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ Cây dài bóng xế ngẩn ngơ, Hồn em đã chín mấy mùa thương đau. Tay anh em hãy tựa đầu, Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.

– Thể sáu tám: Tuy là loại thơ cũ, trước kia người ta thường dùng để sáng tác truyện liên hồi hàng ngàn câu. Trên cơ sở này người ta sáng tác ngắn đi và theo lối gieo vần truyền thống. Ví dụ bài thơ Ngậm ngùi của Huy Cận

– Thể tám chữ: Mỗi câu có 8 chữ (hoặc xen vào ít câu 7 chữ hay 9, 10 chữ). Số câu không hạn định, thường dài, nhưng cũng có thể chia làm khổ 4 câu 6, 8 câu.. Về thanh bằng trắc trong câu, thường chỉ áp dụng luật hoán thanh tổng quát vào các chỗ ngắt đoạn. Vần thường theo kiểu vần liền, có khi có cả vần liền, có khi có cả vần yêu, câu thơ có giọng như Hát nói. Ví dụ như bài Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ.

– Thể bảy chữ: Mỗi câu thơ có 7 chữ. Số câu không có hạn định, có thể chia thành khổ 4 câu. Tất cả phép niêm luật đối của thơ Đường luật đều bị bỏ qua, nhưng có khi vẫn được duy trì một phần, nhất là luật bằng trắc vẫn còn. Gieo vần theo các kiểu thơ Pháp, giống như kiểu tứ tuyệt cũ 4 câu 2 vần, hay 4 câu 3 vần. Ví dụ như trong bài thơ Trăng của Xuân Diệu

– Thể năm chữ: Mỗi câu có 5 chữ. Số câu không hạn định, thường chia làm khổ 4 câu. Vần có thể theo các kiểu vần liền, vần chéo, vần ôm hoặc vần hỗn tạp. Thường cứ gián cách vần trắc với vần bằng. Nhưng chỉ có vần cước không có vần yêu. Thể thơ này phân làm khổ 4 câu như thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Ví dụ như bài thơ Đi chùa hương của Nguyễn Nhược Pháp, Khách lạ đường rừng của Nguyễn Bính.

Nhưng Thơ Mới vẫn có qui tắc và cũng phân làm các thể loại, số câu số chữ, cách gieo vần, và tựu trung gồm có mấy thể loại sau đây:

Tiếng địch thổi đâu đây. Cớ sao mà réo rắt ? Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt. Mây bay, gió quyến, mây bay… Tiếng vi vu như khuyên van như dìu dặt Ánh chiều thu Lướt mặt hồ thu. Sương hồng lam nhẹ tan trên sóng biếc. Rặng lau già xao xác tiếng reo khô, Như khuấy động nỗi nhớ nhung thương tiếc. Trong lòng người đứng bên hồ

Tiếng địch thổi đâu đây. Cớ sao mà réo rắt ? Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt. Mây bay, gió quyến, mây bay… Tiếng vi vu như khuyên van như dìu dặt Ánh chiều thu Lướt mặt hồ thu. Sương hồng lam nhẹ tan trên sóng biếc. Rặng lau già xao xác tiếng reo khô, Như khuấy động nỗi nhớ nhung thương tiếc. Trong lòng người đứng bên hồ

– Vần hỗn tạp: Là cách tham dụng tất cả các lối vần trên trong một bài, không theo một định lệ nào cả. Ví dụ trong bài thơ sau đây của Thế Lữ:

Em nghe mùa thu, Dưới trăng mờ thổn thức, Em không nghe rạo rực, Hình ảnh kẻ chinh phu

Em nghe mùa thu, Dưới trăng mờ thổn thức, Em không nghe rạo rực, Hình ảnh kẻ chinh phu

– Vần ôm: Là cách gieo vần để cho vần câu 1 với câu 4, ôm lấy vần câu 2 với câu 3. Ví dụ trong bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư:

Hạnh phúc rất đơn sơ. Nhịp đời đi chậm rãi, Mái nhà in bóng trưa, Ong hút chùm hoa cải.

Hạnh phúc rất đơn sơ. Nhịp đời đi chậm rãi, Mái nhà in bóng trưa, Ong hút chùm hoa cải.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan, Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới, Đâu những cảnh bình minh nắng gội Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng, Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng, Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan, Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới, Đâu những cảnh bình minh nắng gội Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng, Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng, Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới.

– Vần liền: Vần theo những cặp gián cách, từng cặp vần bằng trắc theo nhau liền, ví dụ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ:

Trong Thơ Mới câu thơ không có hạn định nào về số chữ. Và cũng không tuân theo luật bằng trắc nào như trong thơ cũ. Thơ mới mở rộng ra, có thể đặt những câu ngắn từ 2, 3 chữ hoặc dài đến 9, 10 chữ. Nhưng vẫn theo những vần luật sau đây:

Trong giữa thế kỷ XIX, khi soạn xong Đại Nam quốc sử diễn ca theo thể thơ lục bát, Lê Ngô Cát dâng lên vua Tự Đức và được trọng thưởng, một xấp vải gấm và hai quan tiền. Về sau được tương truyền 2 câu thơ: “Vua khen thằng Cát có tài/ Ban cho cái khố với hai đồng tiền”. Thưởng hay trả công? Bạn hãy so sánh giá trị đồng tiền trong hai thời kỳ và thời giá hiện nay!

Bài thơ và tác giả vẫn thăng trầm theo bao sự kiện của dòng đời. Nhưng đặc biệt Màu tím hoa sim trở thành bài thơ được trả tiền bản quyền cao nhất trong lịch thơ ca Việt Nam (kể cả châu Á). Vào năm 2004, Hữu Loan sửng sốt bằng lòng chuyển giao bản quyền tác giả bài thơ với giá 100 triệu đồng cho Công ty Cổ phần Công nghệ Việt (Vitek) (**)

Lạ lùng! Ai đó đọc hoặc ngâm bài thơ Màu tím hoa sim, độc giả đều bâng khuâng. Nghe các ca khúc phổ bài thơ Màu tím hoa sim thính giả đều bâng khuâng và… tất cả chúng ta đều bâng khuâng. Chỉ một bài thơ này mà nhiều nhạc sĩ phổ thành ca khúc. Vào năm 1960 Dzũng Chinh soạn Những đồi hoa sim bằng điệu slow rumba theo âm giai Rê thứ. Nhạc sĩ Anh Bằng cũng phỏng theo ý thơ, để soạn ca khúc Chuyện hoa sim. Duy Khánh soạn Màu tím hoa sim phần ca từ theo sát bài thơ. Phạm Duy soạn Áo anh sứt chỉ đường tà (từ 1949 đến 1971 mới hoàn thành). Và là đề tài cho các nhạc sĩ soạn ra các ca khúc như Tím cả chiều hoang, Tím cả rừng chiều, Chuyện người con gái hái sim… Tất cả đều thành công.

Dịch thơ: Gác Đằng cao ngất bãi sông thu Ngọc múa vàng reo nay thấy đâu? Nam phố mây mai quanh nóc vẽ Tây sơn mưa tối, cuốn rèm châu Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi Mấy phen vật đổi với sao dời Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá? Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài ! (Tương Như – dịch)

Lạc hà dữ cô vụ tề phi Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc (…) Đằng vương cao các lâm giang chủ Bội ngọc minh loan bãi ca vũ Họa đống triêu phi Nam phố vân Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ Nhàn vân đàm ảnh nhật du du Vật hoán tinh di kỉ độ thu ? Các trung đế tử kim hà tại ? Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu

Lạc hà dữ cô vụ tề phi Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc (…) Đằng vương cao các lâm giang chủ Bội ngọc minh loan bãi ca vũ Họa đống triêu phi Nam phố vân Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ Nhàn vân đàm ảnh nhật du du Vật hoán tinh di kỉ độ thu ? Các trung đế tử kim hà tại ? Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu

Toàn bài Đằng Vương các tự của Vương Bột như sau:

Vì sao bao người khen bài thơ hay mà không nhận ra hai từ dư thừa ? Người chê Vương Bột sao chẳng chịu nói ra ? Biên giả cho rằng cái tài năng lập ý, chọn cảnh vật đã hay đến nỗi nó lấn át hai giới từ dư thừa (dữ, cộng) khiến nhiều người không để ý. Cho hay, văn chương chẳng biết đâu là bến bờ hoàn hảo. Thi sĩ Vương Bột chết thành ma vẫn trăn trở không thể siêu thoát được. Hồn ma ông vẫn muốn làm cho câu thơ được toàn bích. Câu chuyện sáng tạo văn chương công phu như thế thật là kỳ thú lắm! Trong bài này, chúng tôi vẫn ghép hai từ “dư thừa” nguyên tác của Vương Bột. (*)

Sao lại có câu chuyện làm thơ bi thiết mà thú vị đến thế !

Hồn Vương Bột ngẩn người hiểu ra, bèn bái tạ vị khách qua đường… Từ đó không ai còn nhìn thấy bóng ma nhà thơ trẻ tài hoa Vương Bột xuất hiện nữa, hẳn là linh hồn ông đã siêu thoát.

Ngày nọ có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn ma Vương Bột lại hiện hình níu áo hỏi. Chàng văn nhân cười bảo: “Nhà ngươi từng nổi tiếng “tứ kiệt Sơ Đường” mà bao năm không nhận ra cái dốt của mình ư?”. Nói xong dứt áo quay đi. Hồn Vương tha thiết nài nỉ khách giải thích. Khách văn nhân chẳng đành phụ lòng cố thi nhân họ Vương bèn nói “Hai câu thơ thừa chữ “dữ” (với) và “cộng” (cùng). Nếu bỏ hai chữ ấy thì câu thơ tuyệt gọn và thanh thoát lại liền mạch:

 

Mãi mãi thơ vẫn là thơ

Từ phong trào Thơ Mới cho đến nay, làng thơ Việt Nam cũng đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đã hình thành nên các xu hướng và vai trò nhất định của thơ đã gắn liền sứ mệnh của mình với một thời kỳ nhất định nào đó trong lịch sử. Và các thời kỳ này đủ thời gian để cho các nhà phê bình đánh giá. Thời đại ngày nay có xu hướng thơ cận đương đại và đương đại.

Nhìn về mặt tổng thể, sự phát triển của thơ Việt Nam đương đại không còn yếu tố nhạc tính của thơ, độ mờ nhòe của ngôn ngữ, màu sắc lạ hoắc của ngôn ngữ, với những cách tân này người đọc càng cảm thấy mù mờ hơn về “ý đồ nghệ thuật” của các nhà thơ này – các cấu trúc của thơ bị phá vỡ, hình thức ngắt câu, hình thức xuống thang nhiều khi quá lạm dụng để làm lạ hoắc giọng điệu, chưa được giới yêu thơ đồng cảm. Phải chăng đây là chân dung của nàng thơ hiện đại!. Người ta cố gắng cách tân giọng điệu và ngôn ngữ, để tạo ra những nét mới theo kiểu phong trào. Kết quả cho ra đời những bài thơ, khi đọc lên đã thấy mệt và không ai hiểu nổi! Không ít người lại đưa ngôn ngữ vào thơ quá dễ dãi, quá bình dân và ngôn ngữ đời thường làm giảm tính nghệ thuật của thi ca. Hiện nay thơ bùng nổ về số lượng nhưng lại giảm về chất lượng ngày càng nhiều, chính điều này làm cho thơ ngày càng ít người đọc hơn, không còn được chào đón như những dòng thơ trước. Như nhận xét của Nguyễn Gia Nùng: Trong một vạn câu giống thơ, chọn được một câu thơ đã ứa nước mắt mừng vui (***). Đến đây có thể suy ngẫm câu này của nhà thơ nước Anh, Bulwer Lytton : In science, read by preference, the newest works, in Literature the oldest. The classic literature is always modern (Trong lĩnh vực khoa học, người ta thích đọc những tác phẩm mới nhất, còn trong lĩnh vực văn chương người ta thích đọc những tác phẩm cũ nhất. Văn chương cổ điển thì luôn tân kỳ).

Làm thế nào để có một bài thơ hay? Đây là nỗi trăn trở của các nhà thơ, người làm thơ. Bởi vì một bài thơ hay, sống với thời gian, và được người đời mến mộ, thì nó chẳng cần theo một xu hướng nào cả! Những bài thơ ấy tự nó đã định cho mình một xu hướng riêng trong lòng công chúng và nó sẽ tồn tại theo thời gian.Thơ Mới và thơ Hiện tại đã tiến một bước ngắn hơn 80 năm, so với nhiều thế kỷ của thơ Truyền thống, quá trình cách tân tìm cái mới của thơ ca cần phải quan niệm một cách sâu sắc hơn. Và dù đổi mới thế nào đi chăng nữa, thi ca vẫn phải là tiếng nói hồn nhiên nhất, nguyên sơ trong sâu thẳm trái tim và giàu tính nhân bản về đời sống vì sự cao đẹp của con người, và muôn đời mãi mãi thơ vẫn là thơ!… ?

ài liệu tham khảo:
1- Thi ca từ Trung Hoa- Phùng Hoài Ngọc
2- Tạp chí KTNN số 621- Phanxipang-tr: 41, 113, sđd.
3- Thi Nhân Việt Nam – Hoài Thanh, Hoài Chân.
4- Tuyển thơ 30 năm Nguyên tiêu Phú Yên 1980-2010 Hội VHNT Phú Yên – Nxb TT&TT -2010, tr.434.

 ********

Học làm thơ

   Thơ là một loại hình nghệ thuật của ngôn từ, âm thanh của thơ có vần có điệu nhịp nhàng. Lời lẽ của thơ ngắn gọn, hàm chứa, súc tích. Một bài thơ hay có thể làm người đọc rung cảm bởi tiết tấu, bởi nội dung, bởi hình thức thể hiện. Muốn làm thơ hay, các bạn phải có ý tưởng mới lạ, hoặc cái nhìn mới lạ về những sự vật, sự việc quen thuộc. Ngoài ra bạn phải có bố cục hay, tìm từ đắt giá. Một bài thơ lý tưởng, là bài thơ làm cho người đọc có cảm xúc sâu sắc và ấn tượng khó phai với bài thơ đó.

HỌC LÀM THƠ

TẠI SAO TA CẦN ĐỌC THƠ VÀ LÀM THƠ?

 THƠ là một loại hình nghệ thuật của ngôn từ, âm thanh của thơ có vần có điệu nhịp nhàng. Lời lẽ của thơ ngắn gọn, hàm chứa, súc tích. Một bài thơ hay có thể làm người đọc rung cảm bởi tiết tấu, bởi nội dung, bởi hình thức thể hiện.

  Giá trị nghệ thuật của Thơ làm người đọc vui thích vì cái hay, cái đẹp của ngôn từ. Đọc thơ hay, người đọc có xúc cảm nghệ thuật, cảm nhận được Cái Đẹp Tinh Thần, tạo thói quen nhận thức những giá trị tinh thần trong cuộc sống, dần loại bỏ khuynh hướng thực dụng, tôn vinh những giá trị vật chất đơn thuần, khiến con người sa đoạ trong vật chất. Có thể làm thơ hay, người sáng tác thơ dần làm phong phú tâm hồn mình bởi những quan sát, thấu hiểu để có thể phô diễn một cách biểu cảm, sâu sắc và tinh tế những tình huống, cảm xúc trước cuộc đời, từ đó dần nâng tâm hồn mình thăng hoa lên, trên nấc thang tiến hoá của sự sống.

Về hình thức, Thơ có nhiều thể loại, chúng ta có thể kể đến những loại thơ đã được biết đến như : Đường Luật (Thất Ngôn Bát Cú), Lục Bát, Song Thất Lục Bát, Thất Ngôn, Ngũ Ngôn, Tứ Tuyệt v.v….. Sau này chúng ta có thêm  Thơ Tự Do.

 PHƯƠNG PHÁP LÀM CÁC LOẠI THƠ

 Trước tiên chúng ta đề cập đến một loại hình khá phổ biến

 VĂN VẦN

 Cần phân biệt Thơ với Văn Vần, vì văn vần chỉ đơn giản là những câu văn ngăn ngắn, được liên kết với nhau có vần, có điệu nhằm thể hiện một nội dung nào đó, mà không mang tính nghệ thuật như THƠ.

 Ví dụ : Các bài văn vần dành cho trẻ em, ngắn gọn, vui vẻ, dễ nhớ

Hôm nay trời nắng chang chang

Mèo con  đi học chẳng mang thứ gì

Chỉ mang một cái bút chì

Và mang một mẩu bánh mì con con

Hoặc các bài Ca Dao như :

Bồng bồng cõng chồng đi chơi

Đi qua chỗ lội đánh rơi mất chồng

Chị em ơi cho tôi mượn cái gàu sồng

Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên

Chúng ta thường gặp các loại bài văn vần như thế và không nên nhầm lẫn với Thơ

ĐƯỜNG LUẬT (THẤT NGÔN BÁT CÚ)

 Đường Luật là một loại thơ cổ. Các thi sĩ Việt Nam ngày xưa thường hay sáng tác theo thể loại này.

Thơ Đường Luật  (Có tám câu, mỗi câu có bảy chữ ) tuân theo các quy định về luật Bằng Trắc , luật Đối Ngẫu và Vần, Nói chung là Niêm Luật.

  Luật Bằng Trắc

 Bằng là những từ có dấu huyền và không dấu. Trắc là những từ có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng.  Ký hiệu Trắc là T, bằng là B.

Từ thứ hai của câu thứ nhất nếu là T, từ thứ bảy của câu thứ nhất là B, thì bài thơ là luật Trắc vần Bằng . Ngược lại, từ thứ hai của câu thứ nhất  là B, từ thứ bảy của câu thứ nhất là T, thì bài thơ là luật Bằng vần Trắc

Từ câu thứ hai đến câu thứ tám, tuân theo quy luật :

Nhất, tam, ngũ bất luận

Nhị, tứ, lục phân minh

Nghĩa là từ ở vị trí một, ba, năm không nhất thiết phải theo luật bằng trắc. Nhưng từ ở vị trí hai, bốn, sáu buộc phải theo luật cân đối bằng trắc (Nếu từ ở giữa (số bốn) là Trắc thì hai từ ở vị trí số hai và sáu phải là Bằng (và ngược lại).

 Luật Đối Ngẫu

Trong tám câu của bài thơ thì câu thứ ba và câu thứ tư, câu thứ năm và câu thứ sáu  đối nhau cả về hình thức lẫn nội dung.

 Vần

Vần gieo ở cuối các câu một, hai, bốn, sáu, tám  thì buộc phải cùng âm với nhau, hoặc na ná giống nhau. Cuối các câu ba, năm, bảy thì có thanh ngược lại.

Thơ Đường có thể làm theo các loại : 

1/ Luật Trắc vần Bằng

  Đơn cử một bài thơ luật Trắc vần Bằng của Bà Huyện Thanh Quan

QUA ĐÈO NGANG

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

  T      T   B      B        T     T  B 

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

B            T              B    B

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

B                T                 B    T

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

T              B               T     B

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

T             B              T      T

Thương nhà mỏi miệng cái da da

B           T                          B  B

Ngừng đây ngắm cảnh trời non nước

B              T                    B        T

Một mảnh tình riêng, ta với ta

T               B            T        B

Đối nhau về hình thức

Câu thứ ba và câu thứ tư

B B T T B B T

T T B B T T B

Câu thứ năm và câu thứ sáu

T T B B B T T

B B T T  T B B

Đối nhau về nội dung

Câu thứ ba và câu thứ tư

Lom khom đối với Lác đác, dưới núi đối với bên sông

Tiều vài chú đối với Chợ mấy nhà

Câu thứ năm và câu thứ sáu

Nhớ nước đối với Thương nhà, đau lòng đối với mỏi miệng

Con Quốc Quốc đối với Cái Gia Gia

2/ Luật Bằng vần Bằng

Ví dụ : Một bài thơ nổi tiếng của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến 

THU ĐIẾU 

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

B   B    T      T    T      B      B

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

       T                   B         T     B

Sóng biếc đưa làn hơi gợn tÍ

            T          B         T        T

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

    B                T          B      B

Tầng mây lơ lửng trời trong vắt

         B          T             B       T

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

      T                B              T     B

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

     T           B           T       T

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

     B            T               B      B

Đối nhau về hình thức

Câu thứ ba và câu thứ tư

T T B B B T T

T B T T T B B

Câu thứ năm và câu thứ sáu

B B B T B B T

T T B B T T B

Đối nhau về nội dung

Câu thứ  ba và câu thứ tư

Sóng biếc đối với Lá vàng; đưa làn đối với trước gió

Hơi gợn tí  đối với  khẽ đưa vèo

Câu thứ năm và câu thứ sáu

Từng mây đối với Ngõ trúc; lơ lửng đối với quanh co

Trời trong vắt đối với Khách vắng teo

 Trong bố cục thơ Đường, hai câu đầu : Giới thiệu đề tài, bốn câu kế tiếp : triển khai nội dung, hai câu cuối : kết luận.

 Thơ Đường Luật là một thể loại thơ khó làm và khó hay, bởi quy luật chặt chẽ về âm vận, ứng đối và bố cục một bài phải gói gọn trong tám câu. Thi sĩ nào dám chọn thể thơ này để làm là chấp nhận thử thách tài năng của mình, nếu thành công (sáng tác được một bài thơ hay) thì điều đó chứng tỏ được sự tài giỏi và tinh tế trong văn chương của họ.

THƠ LỤC BÁT

 Thơ Lục Bát là thể thơ quy định hai câu liên tiếp một câu sáu chữ, một câu tám chữ và số câu thì không giới hạn. Thơ Lục Bát nổi tiếng bởi tác phẩm nổi tiếng thế giới “Đoạn Trường Tân Thanh” của Đại Thi Hào NGUYỄN DU. Thơ Lục Bát là một thể thơ rất dễ làm bởi luật thơ rất đơn giản và tự do. Do không quy định bắt buộc về số câu trong bài thơ, nên bố cục được “mở” cho người làm thơ. Ngoài ra, các âm bắt vần cho hai câu không bắt buộc phải khớp với nhau một cách chặt chẽ, bởi một âm na ná tương tự cũng có thể chấp nhận được.

Nguyên tắc thơ lục bát     

 Âm của chữ thứ 6 của câu số 6 vần với âm của chữ thứ 6 của câu số 8. Chữ thứ 8 của câu số 8 vần với chữ thứ 6 của câu thứ 6 tiếp theo. Chữ thứ 6 của câu thứ 8 tiếp theo vần với chữ thứ 6 của câu thứ 6 kế trên. Chữ thứ 8 của câu thứ 8 này vần với chữ thứ 6 của câu thứ 6 tiếp theo . v.v….

 Mô hình thơ lục bát như sau

          1   2   3   4   5   6

          1   2   3   4   5   6   7   8

          1   2   3   4   5   6

          1   2   3   4   5   6   7   8

          1   2   3   4   5   6

          1   2   3   4   5    6    7    8

Trích đoạn thơ Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) của Nguyễn Du để minh hoạ thơ lục bát

  ….Đầu lòng hai ả Tố Nga

     Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân    

     Mai cốt cách tuyết tinh thần

     Mỗi người một vẻ  mười phân vẹn mười

     Vân xem trang trọng khác vời

     Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang………

 Qua đoạn thơ trên, chúng ta thấy âm vận trong thơ lục bát không quá khắt khe. Nếu khi thuận lợi cho ý thơ, có thể sử dụng âm vần nhau một cách chặt chẽ như : Nga, là – Vân, thần, phân. Nhưng cũng có thể sử dụng những âm tương tợ để hợp với ý câu, như : mười, vời, ngài…

Thơ lục bát là thể loại thơ dễ làm, nhưng không vì thế mà nó kém giá trị sử dụng. Với tài văn chương của những thi sĩ hàng đầu, các tác giả vẫn có thể tạo nên những tác phẩm thơ tuyệt bút.

THƠ THẤT NGÔN

 Thất Ngôn là thể loại Thơ  mỗi câu có bẩy chữ, số lượng câu không giới hạn. cách gieo vần trong thơ Thất Ngôn cũng rất đơn giản và “thoáng” có nghĩa là vần na ná tương tự cũng có thể chấp nhận được, miễn là đọc lên nghe xuôi tai, không chỏi  là được.

 QUY LUẬT

 Hai câu đầu tiên  bắt buộc : Chữ cuối của câu thứ nhất vần với chữ cuối của câu thứ hai (thường là âm Bằng)

          Câu thứ ba, âm cuối  là vần Trắc .

Câu thứ tư, âm cuối là vần Bằng.

Sau đó cứ một câu vần Trắc lại một câu vần Bằng.

MÔ HÌNH THƠ THẤT NGÔN

1      2  3  4  5  6  7

1      2  3  4  5  6  7

1      2  3  4  5  6  7

1      2  3  4  5  6  7

1      2  3  4  5  6  7

1      2  3  4  5  6  7

1      2  3  4  5  6  7

Một bài thơ minh hoạ :

…Dải lụa nào hay áo em bay

Cho lòng ta bỗng ngất ngây say

Tình ơi, em đã bao nhiêu tuổi

Để nhớ để thương suốt tháng ngày

Ai gõ vào tim từng tiếng đập

Cho hồn ta vỡ giấc mơ hoang

Em là Thiên Sứ đem ánh sáng

Từ thuở hồng hoang cõi địa đàng…

THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT

 Giống như thể loại thơ Thất Ngôn, nhưng  Thất Ngôn Tứ Tuyệt là thơ  chỉ có bốn  câu. Sự khác biệt của thể loại thơ này là bố cục bài thơ được gói gọn trong bốn câu, còn quy luật thì cũng giống như thơ Thất Ngôn.

Ví dụ một bài thơ thuộc thể loại này :

Vạn pháp phù du khéo huyễn bày

Vô thường cho đến cả cỏ cây

Trăng non đương độ rồi trăng khuyết

Trong mắt em

Ngàn năm mây bay

THƠ THẤT NGÔN & THẤT NGÔN TỨ TUYỆT

 Đây là cách làm thơ phối hợp hai thể loại Thất Ngôn lại với nhau.

Ví dụ một bài thơ minh hoạ :

 TRỞ LẠI

 Cho tôi trở lại mái chùa xưa

Với ngói rêu phong đã mấy mùa

Với cả hồ sen hương bát ngát

Với chiều tịch mịch tiếng chuông đưa

Cho tôi trở lại mái chùa xưa

Trở lại dòng sông mát bóng dừa

Trở lại đồi thông vang tiếng gió

Có rặng hoa vàng ngủ giữa trưa

Cho tôi trở lại mái chùa xưa

Dầu đã phong trần trải nắng mưa

Dẫu lớp sóng đời ô tuổi ngọc

Dẫu bao cay đắng nếm chưa vừa

Cho tôi trở lại ngày thơ ấu

Nhặt lá bên hiên quét cổng chùa

Tôi học bài kinh quên từ độ

Xuôi dòng thế tục nếm cay chua

Cho tôi trả lại Người – nhân thế  – 

Trả những oan khiên, những nợ nần

Trả những lợi danh và phú quý

Trả tình yêu lại kẻ Tình Chân

Cho tôi góp lại muôn lầm lỗi

Làm gói hành trang trở lại chùa

Cho tôi kính cẩn dâng Chư Phật

Lễ vật tâm thành đắt giá mua

Cho tôi xin được yên nghỉ mãi

Dưới rặng thông ngàn vướng vít mây

Cho hồn tôi quyện hồn cỏ dại

Thênh thang cánh gió hướng trời Tây.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ làm theo thể Thất Ngôn Tứ Tuyệt các khổ thơ còn lại làm theo thể Thất Ngôn.

THƠ SONG THẤT LỤC BÁT

Song Thất Lục Bát là loại thơ gồm hai câu bẩy chữ, một câu sáu và một câu tám chữ.  Mỗi khổ thơ có bốn câu như vậy và không hạn chế số khổ thơ. Quy luật và âm vận được phối hợp như sau :

1      2  3  4  5  6  7

1      2  3  4  5  6  7

1      2  3  4  5  6

1      2  3  4  5  6  7  8

Ví dụ hai khổ thơ minh hoạ :

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên

Xanh kia thăm thẳm từng trên

Nào ai gây dựng cho nên nỗi này

Trống trường thành lung lay bóng nguyệt

Khói cam tuyền mờ mịt thức mây

Bốn lần tên bắn trao tay

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh….

THƠ NGŨ NGÔN

Ngũ ngôn là thể loại thơ năm chữ,  không hạn chế số câu. Quy luật thơ như sau :

1   2   3   4   5

1   2   3   4   5

1   2   3   4   5

1   2   3   4   5

…………..

Chữ cuối của câu đầu là vần trắc, chữ cuối của câu tiếp theo là vần Bằng. Sau đó cứ một câu vần Trắc, một câu vần Bằng…

Ví dụ minh hoạ :

Mùa Vu Lan năm ngoái

Anh tặng đoá hoa tươi

Em cài lên áo mới

Như mang một nụ cười

Mùa Vu lan năm ấy

Hoa nở ngập đường vui

Em đi trên mộng ước

Như đi giữa giòng đời

Mùa Vu Lan năm ấy

Mắt mẹ vẫn sáng ngời

Như mặt trời rực rỡ

Cho mùa xuân em tươi ….

THƠ TỨ NGÔN

Thơ Tứ Ngôn là loại thơ bốn chữ. Giống như các loại thơ khác, mỗi khổ thơ gồm 4 câu , nhưng tuỳ theo bố cục bài thơ, ý thơ mà số câu nhiều ít khác nhau.

Chữ cuối các câu 2, 3, 6, 7,… là âm Bằng và vần với nhau. Chữ cuối các câu 1, 4, 5, 8, 9, …là vần Trắc.  Nói chung, từ câu thứ hai trở đi, cứ 2 câu âm Bằng lại kèm 2 câu âm Trắc…

 Quy luật thơ bốn chữ :

1    2    3    4

1    2    3    4

1    2    3    4

1    2    3    4

1    2    3    4

1    2    3    4

1    2    3    4

1    2    3    4

Ví dụ minh hoạ

 Trong phòng hương toả

Khói thuốc nhạt nhoà

Hương khói quyện hoà

Như ta quấn quýt

Anh là khói thuốc

Em thỏi hương trầm

Đôi ta phù vân

Cùng nhau chấp cánh.

THƠ LỤC NGÔN

 Thơ lục ngôn là thơ sáu chữ. Quy luật thơ không khó lắm, nhưng làm theo thể loại này, thơ khó hay, trừ khi nhà thơ phải thật tài năng.

Luật thơ : Chữ cuối các câu 1 và các câu chẵn 2, 4, 6, 8…thuộc âm Bằng . câu lẻ 3, 5, 7,…thuộc âm Trắc. Chữ thứ tư của câu dưới thường vần với chữ thứ 6 của câu trên.

1      2  3  4  5  6

1      2  3  4  5  6

1      2  3  4  5  6

1      2  3  4  5  6

1      2  3  4  5  6

1      2  3  4  5  6

1      2  3  4  5  6 

1      2  3  4  5  6

 Ví dụ minh hoạ :

Tôi yêu, tôi yêu rất nhiều

Tôi yêu, yêu biết bao nhiêu

Tôi yêu tuổi thơ trong trắng

Tôi yêu ánh nắng mùa xuân

Tôi yêu chùm hoa hoang dã

Tôi yêu câu nói …ngại ngần

Tôi yêu trời xanh màu áo

Tôi yêu tiếng sáo hư không

Tôi yêu giòng sông mây trắng

Tôi yêu một cánh diều say

Tôi yêu bàn tay thân ái

Tôi yêu một chiều mưa bay …

 THƠ BÁT NGÔN

Thơ bát ngôn là thơ tám chữ. Cách gieo vần cho thơ giống thơ Tứ ngôn như sau :

 Chữ cuối các câu 2, 3, 6, 7,….âm Bằng, chữ cuối các câu 1, 4, 5, 8, 9…âm trắc .Nói chung, sau câu 2, 3, cứ cách 2 câu âm trắc lại là 2 câu âm bằng.

1   2   3   4   5   6   7   8

1   2   3   4   5   6   7   8

1   2   3   4   5   6   7   8

1   2   3   4   5   6   7   8

1   2   3   4   5   6   7   8

1   2   3   4   5   6   7   8

1   2   3   4   5   6   7   8

1   2   3   4   5   6   7   8

 Ví dụ minh hoạ

…..Tình như gió bắt đầu cơn bão nổi

Tình như mây báo hiệu trận phong ba

Tình như men thiêu đốt suốt xương da

Tình nồng thắm mặn mà hoa đương độ

Gió đưa thuyền về bến sông kỳ ngộ

Đời đưa ta vào mê lộ tình yêu

Linh hồn ta nhắm mắt để bước liều

Không biết nữa Thiên Đường hay Địa Ngục

THƠ TỰ DO

Thơ tự do là thể loại thơ không quy định bắt buộc số chữ trong câu, số câu trong một bài, cũng không quy định âm luật cho bài thơ. Vì vậy, thơ tự do tuỳ thuộc vào sự gieo vần ngẫu hứng của tác giả.

Ngày nay, nhiều người tưởng mình làm “thơ tự do” nhưng thực ra chỉ là sự ghép nối những câu văn xuôi ngăn ngắn, bởi vì Thơ chỉ được gọi là Thơ khi đọc lên có vần có điệu, cho dù đó là thơ tự do đi nữa.

Ví dụ minh hoạ :

NẰM BÊN TRÁI

 Anh có cái đầu

 và một trái tim

Cái đầu ở giữa nhưng trái tim không chịu nằm ở giữa

Cái đầu dùng công lý xét soi

nhưng trái tim có lý lẽ riêng của nó

Nó không cần sự biết điều hợp lý

Nó tự do như gió như mây,

như cánh chim Hải Âu thênh thang trên những dải núi non hùng vĩ

Có những khi cái đầu reo vui

thì trái tim rên rỉ

Cái đầu nói đúng thì nó bảo sai, cái đầu muốn thôi

thì nó bảo rằng cứ nữa

Ôi trái tim

nó che dấu bao nhiêu điều kỳ bí

Mà cái đầu không bao giờ hiểu được đến nơi

Chàng hoa tiêu ở trên phải nghe lệnh ông chủ điên cuồng ở dưới

Bởi vì khi cái đầu bóp nát trái tim

thì có nghĩa là nó theo nhau về nơi chín suối

Khi anh nói yêu em

đó là điều nghịch lý

Nhưng biết làm sao được

vì tim anh nằm bên trái

Em ơi!

 Muốn làm thơ hay, các bạn phải có ý tưởng mới lạ, hoặc cái nhìn mới lạ về những sự vật, sự việc quen thuộc. Ngoài ra bạn phải có bố cục hay, tìm từ đắt giá.

 Một bài thơ lý tưởng, là bài thơ làm cho người đọc có cảm xúc sâu sắc và ấn tượng khó phai với bài thơ đó.

Chúc các bạn thành công, sáng tác được những vần thơ tuyệt diệu .

 

Kim Phượng sưu tập

 

 

 

 

Rate this post