Lịch sử tâm linh: Ngôi mộ chị Võ Thị Sáu linh thiêng

Lịch sử tâm linh: Ngôi mộ chị Võ Thị Sáu linh thiêng

5

1

Bình chọn

Article Rating

[Lịch Sử – Tâm Linh]

Tiểu sử chị Võ Thị Sáu

Chị Võ Thị Sáu sinh năm 1933 ở xã Phước Thọ quận Đất Đỏ nay là huyện Long Đất tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Được sinh ra ở vùng quê giàu truyền thống cách mạng năm 1947 khi mới 14 tuổi chị gia nhập Đội Công an xung phong quận Đất Đỏ với mong muốn trừng trị bọn ác ôn. Từ đó chị đã trở thành người chiến sĩ trinh sát làm nhiệm vụ phá tề trừ gian với nhiều chiến công nổi tiếng.

https://datdo.baria-vungtau.gov.vn/

Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là con ông Võ Văn Hợi và bà Nguyễn Thị Đậu. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nhiều tài liệu ghi nguyên quán của cô tại xã Phước Thọ (thuộc tổng Phước Hưng Hạ), tỉnh Bà Rịa, nay thuộc thị trấn Đất Đỏ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.[3] Một số tài liệu khác ghi nguyên quán của cô tại xã Long Mỹ (thuộc tổng Phước Hưng Thượng), tỉnh Bà Rịa, nay thuộc Long Mỹ, Đất Đỏ, Bà Rịa – Vũng Tàu.

Sinh ra trong một gia đình nghèo, cha làm nghề đánh xe ngựa chở khách thuê đi Long Điền, Phước Hải, mẹ buôn bán bún bì chả tại chợ Đất Đỏ, từ nhỏ, cô phải phụ giúp cha mẹ để sinh kế. Năm cô lên 4 tuổi, gia đình cô đã thuê một căn nhà thuộc dãy phố chợ do làng xây dựng để cho thuê mượn. Căn nhà này nay thuộc thị trấn Đất Đỏ, được Nhà nước Việt Nam cho phục dựng để làm nhà lưu niệm về cô

Ngôi mộ Chị Võ Thị Sáu Linh thiêng

1/ Ngôi mộ có bốn tấm bia

Không phải cổ tích hay huyền thoại. Chuyện thật trăm phần trăm. Thật nhưng cả những lúc tâm hồn thăng hoa giàu tưởng tượng nhất tôi cũng không hình dung được trên ngôi mộ chị Võ Thị Sáu trong nghĩa trang Hàng Dương Côn Đảo có tới 4 tấm bia.

Ngôi mộ có 4 tấm bia của anh hùng liệt sỹ Võ Thị Sáu ở nghĩa trang Hàng Dương – Côn Đảo

Tháng 2/1950 chị dẫn đầu một tổ dùng lựu đạn tập kích diệt hai tên ác ôn Cả Suốt Cả Đay. Không may chị bị sa vào tay địch. Chúng dùng mọi cực hình tra tấn nhưng không khai thác được gì liền đưa chị về giam ở khám Chí Hòa Sài Gòn để tiếp tục khai thác và sau đó mở phiên tòa tuyên án tử hình chị.
Tại phiên tòa đại hình tuy mới 17 tuổi nhưng chị Võ Thị Sáu đã hiên ngang tỏ rõ khí phách anh hùng của một thiếu nữ Việt Nam làm cho lũ quan tòa và đồng bọn đều phải nể sợ. Chị sang sảng khẳng định: “Yêu nước chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội”. Và khi tên quan tòa rung chuông ngắt lời chị tuyên án: “Tử hình tịch thu toàn bộ tài sản” chị đã thét vào mặt y: “Tao còn mấy thùng rác ở khám Chí Hòa tụi bây vô mà tịch thu!”. Tiếp đó là tiếng hô: “Đả đả thực dân Pháp!”. “Kháng chiến nhất định thắng lợi!”.Thực dân Pháp muốn giết chết ngay người con gái đáng sợ này nhưng không dám thực hiện bản án tử hình đối với người chưa đến tuổi thành niên. Chúng phải tiếp tục giam chị ở khám Chí Hòa và rồi đưa ra Côn Đảo. Ngày 23/1/1952 chúng thi hành bản án bắn chết chị ở ngoài hòn đảo xa đất liền này sau hai ngày chúng đưa chị ra đây. Biết sắp bị hành hình suốt đêm 22 chị đã gửi lòng mình với đất nước và nhân dân bằng những bài ca cách mạng: Lên đàng Tiến quân ca Cùng nhau đi hùng binh…

Ngôi mộ chị Võ Thị Sáu ở đâu

Bốn giờ sáng ngày 23/1/1952 sau khi tên chánh án làm thủ tục thi hành án viên cố đạo liền lên tiếng: “Bây giờ cha rửa tội cho con”. Chị gạt phắt lời viên cha cố: “Tôi không có tội. Chỉ có kẻ sắp hành hình tôi đây mới là có tội…”. Ông ta kiên nhẫn thuyết phục: “Trước khi chết con có điều gì ân hận không?”. Chị nhìn thẳng vào mặt ông ta và mặt tên chánh án trả lời: “Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và lũ tay sai bán nước”.

Đã được mật báo về hành động anh hùng của Võ Thị Sáu và cả ngày giờ giặc Pháp hành hình chị – một nữ tù đầu tiên và duy nhất ở Côn Đảo từ trước tới thời điểm ấy hàng ngàn trái tim những người tù chính trị từ banh I đến banh II đã thổn thức suốt đêm. Khi lắng nghe thấy bước chân bọn đao phủ giải chị Sáu đến nơi hành hình tất cả anh em cùng đứng dậy hát vang bài Chiến sĩ ca – bài hát thời ấy dành để bày tỏ lòng cảm phục tiếc thương và tiễn đưa những người đồng đội ra pháp trường.

Ra đến pháp trường tên chánh án hỏi chị: “Còn yêu cầu gì trước khi chết?”. Chị nói: “Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn đất nước thân yêu đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng của các người!”. Nói xong chị bắt đầu cất cao tiếng hát. Chị hát bài Tiến quân ca. Giọng hát của người con gái Đất Đỏ lúc này thiết tha bay bổng say sưa át cả tiếng tên chánh án đọc lệnh thi hành án tử hình và tiếng hô ra lệnh cho toán lính lên đạn của tên đội trưởng lê dương. Khi tên chỉ huy ra lệnh cho bọn lính chuẩn bị nổ súng thì chị lập tức ngưng hát và hét lên: “Đả đảo thực dân Pháp!”. “Việt Nam độc lập muôn năm!”. “Hồ Chủ tịch muôn năm!”.

Tiếng thét của chị làm bọn đao phủ chùng tay bảy tiếng súng khô khốc nổ chuệch choạc. Võ Thị Sáu vẫn hiên ngang đứng đó. Cặp mắt chị trừng trừng nhìn chúng. Tên đội trưởng lê dương không tổ chức bắn loạt đạn thứ hai. Hắn rút súng ngắn lầm lũi bước lại gí vào mang tai chị bóp cò…

Sau đó chiến công và nhất là hành động anh hùng lẫm liệt trước kẻ thù của Võ Thị Sáu – người con gái Việt Nam anh hùng – đã được truyền tụng không chỉ trong các banh tù mà còn vào đến phòng ngủ của bọn chúa đảo chức sắc và các gia đình trên toàn Côn Đảo…

Do cảm phục người con gái anh hùng ngay tối hôm 23/1 kíp tù làm thợ hồ ở khám 2 banh I đã tìm cách đúc một tấm bia bằng ximăng đề rõ họ tên quê quán ngày hy sinh đặt ở đầu mộ chị.

Sáng hôm sau hay tin tên chúa đảo Jarty đích thân dẫn lính đến đập nát tấm bia san bằng ngôi mộ.
Tưởng thế là đã xóa bỏ được uy linh của Võ Thị Sáu Jarty không ngờ sáng hôm sau mộ chị lại được đắp cao hơn trước và một tấm bia bằng ximăng khác lại được dựng lên trang trọng. Jarty lồng lên ra lệnh cho giám thị trưởng Passi chỉ huy 20 tên tay sai mang 10 bó roi mây đến khủng bố kíp tù thợ hồ. Chúng lôi từng người ra đánh người lủng đầu rách lưng đổ máu… nhưng không ai hé răng khai báo. Sau trận ấy nhiều tù nhân phải nằm bệnh xá những người bị tình nghi phải nằm xà lim. Nhưng những người còn đi làm khổ sai vẫn lén giấu từng nhúm xi măng để dựng lại bia đắp lại mộ chị Sáu.

Chị Võ Thị Sáu mất năm bao nhiêu tuổi

Không ai nhớ hết có bao nhiêu tấm bia bằng ximăng được dựng trên mộ chị. Và cũng không biết có bao nhiêu lệnh của bọn chúa đảo gác ngục phái tay sai ra đập mộ Võ Thị Sáu. Nhưng bọn chúng không sao hiểu nổi cứ mỗi lần chúng đập bia phá mộ chị thì sau đó bia mộ chị Sáu lại hiện lên như trước. Họ bắt đầu lan truyền rằng: “Cô Sáu rất linh thiêng không ai có thể đập phá được mộ của cô” và còn đồn rằng:

Cô đã hiện về cô sẽ vặn cổ những tên hỗn láo…” và những chuyện như huyền thoại về chị Sáu bắt đầu truyền đi.

-Một điều trùng hợp mà không ai lý giải được là những tên hỗn láo trực tiếp chỉ huy phá mộ chị hoặc trực tiếp đập bia mộ chị thì vài hôm sau đã chết “bất đắt kỳ tử” hoặc khùng khùng điên điên. Thấy thế bọn gác ngục và lũ tù gian bắt đầu chùn tay. Cũng từ đây bọn cai tù gác ngục và kể cả vợ con họ khi nhắc tới điều gì đều không thề: “Có trời đất quỷ thần” mà thề: “Có cô Sáu chứng giám”. Lời thề ấy đến cả tên chúa đảo cũng phải thốt ra.

-Từ đó không chỉ riêng các tù chính trị mà cả những tù thường phạm vợ con gác ngục binh lính công chức… mỗi lần đi ngang qua nghĩa trang Hàng Dương đều không quên đặt một viên đá hay cắm một bông hoa thắp một nén hương lên mộ chị. Thế nên phần mộ chị và tấm bia bằng ximăng đã không mất đi mà cứ cao dần tồn tại cho tới ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Đó là tấm bia thứ nhất được đặt ở bên phải phía trước ngôi mộ mới được xây dựng lại khang trang hiện nay.

Tấm bia thứ hai màu trắng và cùng ở phía trước nhưng bên trái ngôi mộ với các dòng chữ khá rõ: “Liệt nữ Võ Thị Sáu sinh năm 1933 tại Bà Rịa mất ngày 23/1/1952” cũng là một chuyện hiếm có.

Chuyện là năm 1960 khi Tăng Tư ra Côn Đảo nhận chức Phó tỉnh trưởng tỉnh Côn Đảo vợ y đang mắc chứng bệnh nan y. Nghe chuyện về Võ Thị Sáu vợ chồng y đã âm thầm lập bàn thờ chị Sáu trong nhà làm thần hộ mệnh và cầu mong chị phù hộ cho vợ y tìm được thầy thuốc chữa khỏi bệnh. Năm 1964 Tăng Tư lên chức tỉnh trưởng vợ y khỏi bệnh. Vợ chồng Tăng Tư liền làm lễ tạ và gieo quẻ xin phép được trùng tu ngôi mộ của chị Sáu. Rồi vợ Tăng Tư về ngay Chợ Lớn đặt tấm bia có khắc rõ là: “Liệt nữ Võ Thị Sáu…” và tổ chức buổi lễ long trọng đặt bia trên mộ chị.

Tấm bia thứ ba bằng đá đen với những dòng chữ phủ nhũ vàng: “Liệt sĩ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Võ Thị Sáu sanh năm 1933…” được đặt ở vị trí trung tâm trang trọng nhất trên mộ phần của chị đó là tấm bia với danh nghĩa Nhà nước và nhân dân ta ghi công chị – người con gái Việt Nam bất khuất anh hùng.

Tấm bia thứ tư bằng đá phía sau tấm bia này là một phiến đá hoa cương hình tròn đường kính gần hai mét. Nó vừa làm nền rất bề thế hài hòa cho phía sau phần mộ vừa tượng trưng cho ý chí hiên ngang của chị Võ Thị Sáu khi ở tuổi 17. Cũng còn một ý nghĩa là chị mãi mãi vẫn trẻ đẹp và sống mãi cùng non sông gấm vóc như ánh trăng rằm.

2/ Những kẻ Đập phá Bia mộ

Tiểu sử chị Võ Thị Sáu

Ý chí bất khuất của chị Võ Thị Sáu là khi chị lọt vào tay giặc. Đòn roi, tra tấn mấy chị cũng không khai. Khi ra tòa, quan hỏi chị:

–Bị cáo có nhận lỗi như cáo trạng không?

Không trả lời câu hỏi của hắn, chị hỏi lại:

Là quan tòa, ông có thể kết tội những người Pháp Đờ Gôn chống phát xít Đức chiếm đóng nước Pháp không?

-Quan tòa lắc chuông:

–Bị cáo chỉ có thể trả lời “có” hoặc “không”.

Chị Sáu nghiêm chỉnh đáp:

–Tôi không có tội, yêu đất nước mình, chống lại thực dân xâm lược, không phải là một tội. Chị Sáu bị kết tội tử hình. Đó là bản án tử hình của bọn thực dân Pháp đối với một người con gái chưa đủ tuổi thành niên. Dư luận xôn xao, chúng không dám giết chị ở đất liền mà đưa ra Côn Đảo. Chị là người thiếu nữ đầu tiên bị đưa ra hành hình ở Côn Đảo.

Thật cảm động biết bao khi ở khám tử hình, chị Sáu nhờ người tới xin vợ chồng Cò:

–Thưa ông bà, người tù kia sớm mai bị hành quyết. Cô ấy muốn xin được vài phút ra sân tắm nắng để được ngắm đất trời quê hương mình.

Yêu quê hương đến thế là cùng. Trước sân Võ Thị Sáu xõa tóc hong gió. Cái bóng hồn nhiên nhỏ bé ấy đã làm vợ Cò trở về phòng, úp mặt xuống giường thổn thức.

Đêm cuối cùng ấy trong xà lim Võ Thị Sáu hát suốt đêm những bài hát hào hùng: Cùng nhau đi hùng binh, Tiểu đoàn 307, Lên đàng.

Phút giây chị Sáu ra pháp trường, đúng là những phút giây anh hùng. Xin hãy nhớ lại cuộc đối đáp giữa viên cố đạo và chị Sáu:

–Bây giờ cha sẽ rửa tội cho con.

–Tôi không có tội. Nếu cha muốn rửa tội, xin hãy rửa tội cho những kẻ sắp giết tôi đây.

–Lạy Chúa! Trước khi chết con có ân hận gì không?

-Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và tay sai bán nước.

Có lẽ nào không rưng rưng nước mắt khi trước phút hành hình, chánh án yêu cầu chị Sáu có yêu cầu gì trước khi chết. Chị Sáu đã yêu cầu bỏ bịt mắt để chị nhìn đất nước mình đến giây phút cuối. Tràng đạn đã nổ trong tiếng hát bài Tiến quân ca của chị.

Nhân dân Côn Đảo đã lập đền thờ chị Sáu trên hòn đảo anh hùng và thiêng liêng này. Trước đền thờ là bức tượng chị Võ Thị Sáu trẻ trung đôi mắt thăm thẳm nhìn về tương lai. Bên phải tượng là mô hình hai bàn tay lồng vào nhau siết chặt. Chúng tôi hiểu đó là biểu tượng của ý chí bất khuất. Chúng tôi vào đền thắp hương cho chị Sáu, ngồi trước bát hương là tượng bán thân chị Võ Thị Sáu. Chúng tôi nhìn chị nghĩ tới cái tuổi 19 chị ngã trên đất Côn Đảo này, để cho thế hệ 19 tuổi bây giờ hồn nhiên cắp sách đến trường. Tôi như nghe tiếng chị vang lên trước tiếng súng xoáy vào tim chị:

Việt Nam độc lập, muôn năm!

Vâng đó là lời thề của cô thiếu nữ 19 tuổi. Kẻ nào quên lời thề ấy, chúng đáng được gọi là kẻ phản phúc. Bên cạnh tượng chị là lời khen của Bác Hồ được viết bằng chữ vàng trên nền đỏ giống như biểu tượng của lá cờ: “Gương anh dũng của cháu Võ Thị Sáu luôn luôn sáng ngời để cho phụ nữ ta học tập”.
Ngày chị Sáu hy sinh là ngày 23/1/1952. Tính cho đến nay chị Sáu đã mất 59 năm. Nhưng về phương diện tâm linh, chị Sáu vẫn đang sống cùng dân Côn Đảo. Đến như người lính lê dương già thời đó, sau khi chị Sáu chết còn thẫn thờ:

Cô ấy bình thản đến lạ lùng. Yêu đời đến phút chết, dũng khí tỏ ra ngay cả khi đã ngã xuống rồi. Đó mới chính là một người anh hùng. Cô ấy tin vào chính nghĩa của dân tộc mình. Còn chúng tôi thì chỉ biết bắn giết.

Còn nhân dân Côn Đảo thì vẫn gặp chị Sáu. Xin hãy nghe chị Liễu kể:

Tôi đem hương hoa đến viếng mộ chị Võ Thị Sáu. Khi đến gần mộ, tôi bỗng thấy một người con gái mặc áo dài trắng từ ngôi mộ đi ra, thong thả dạo bước về phía thị trấn. Tôi sụp lạy, hồi lâu mới dám bước tới mộ dâng hương. Sau đó trên đường trở về nhà, đi đâu cũng thấy bóng người con gái ấy ở trước mặt. Thế là tết ấy tôi lập bàn thờ cô Sáu, đặt nơi trang trọng khói hương suốt 4 mùa.

Dân Côn Đảo quý trọng chị Sáu đến mức độ, lâu nay có điều gì khúc mắc ân oán trong lòng đều đem trời đất, quỷ thần ra thề, bây giờ thì gọi chị Sáu:

Thề có cô Sáu chứng giám.

Làm sao không tin được vì tấm bia cho chị Sáu hôm nay dựng lên bị đập tan thì ngày mai lại xuất hiện đúng chỗ đó một tấm bia mới. Dân có điều gì đến mộ chị thắp hương vái lạy, đều toại nguyện. Cứ giả thử những điều cầu xin ấy không được toại nguyện thì những người dân biển rất thực tế này liệu có đến cúng vái bên mộ chị Sáu nữa không. Ngược lại, người đến cầu xin ngày một đông. Đủ biết niềm kính yêu thiêng liêng ấy nói lên điều gì.

Nhà tù giam giữ chị Võ Thị Sáu

Một bằng chứng không thể chối cãi nữa là bất cứ kẻ nào đụng tới điều thiêng liêng ấy đều chết bất đắc kỳ tử.

Như tên Nghị tù thường phạm từ Phủ Lợi bị đày ra đảo được tuyển vào làm trật tự an ninh nhà tù. Vâng lời tên chúa đảo say máu, Nghị hung hăng.

Sợ gì, để tôi đập bia Võ Thị Sáu, coi ai làm gì nổi tôi.

Nghị hung hăng xách búa đến đập bia chị Võ Thị Sáu, sáng hôm sau một tấm bia mới đã lại mọc lên. Chúa đảo cho đi gọi Nghị, nhưng Nghị đã nằm liệt một chỗ, không dậy nổi, hồi lâu lại gào lên thảm thiết:

Tội nghiệp em! Cô Sáu ơi, em lỡ dại.

Ba hôm sau Nghị chết.

Lại như cuộc cải huấn do cố vấn Mỹ và Đài Loan khởi động, để trắc nghiệm tư tưởng tù nhân, chúng khơi lại chuyện đập mộ chị Võ Thị Sáu. Thằng Sước, tù quân phạm, trật tự tại trại 7 xung phong.

Một tên đồng phạm cảnh cáo Sước:

Mày coi chừng kẻo tối nay loạng choạng, cô Sáu kéo xuống biển cho vích ăn thịt đấy.

Sước ngông nghênh:

Hà hà… Để tối nay tao ra biển cho tụi bây coi…

Đập bia chị Võ Thị Sáu xong, Sước lấy tiền thưởng uống rượu. Đêm vắt áo lên vai ngất ngưởng ra biển. Sáng hôm sau không thấy Sước điểm danh, ra biển tìm, Sước đã chết cứng, lưng dính chặt vào đá.
Dân Côn Đảo kể cho tôi nghe chuyện về chúa đảo Tăng Tư. Tăng Tư rất giữ lễ đối với cô Sáu. Vì vậy được thăng tiến. Từ phụ tá tỉnh trưởng lên phó tỉnh trưởng rồi tỉnh trưởng. Ngày nhận chức, Tăng Tư tạ ơn vị thần hộ mệnh một con heo quay, rồi khấn vái gieo quẻ, Tăng Tư nài nỉ cô Sáu:

Trăm lạy cô, ngàn lạy cô. Cô đã thương em thì thương cho trót. Nếu cô không đồng ý cho trùng tu mộ thì xin cô cho em đắp lại mộ và đặt một tấm bia đá cho cô.

Gieo được quẻ, Tăng Tư cho vợ về chợ Lớn đặt ngay một tấm bia cẩm thạch đưa ra làm lễ đặt bia long trọng.

Đó là tấm bia đẹp nhất và tồn tại cho đến tận bây giờ. Đến bên mộ chị Sáu, chúng tôi vẫn được thấy tấm bia ấy. Khi xem bộ phim dài tập Khát vọng bất diệt quay về Côn Đảo, chúng tôi rất may được gặp vợ chồng Tăng Tư trong phim. Hai ông bà còn sống cho đến tận bây giờ, kể lại lòng kính yêu chị Sáu và nhắc lại tấm bia vợ chồng ông đã dựng ngày ấy, giọng kể đầy xúc động như ngày nào vợ chồng ông xin quẻ bên mộ chị Sáu linh thiêng.

Ở Côn Đảo có hai ngôi đền thờ được dân Côn Đảo tôn vinh là hai vị thần của mình. Một là đền thờ chị Võ Thị Sáu, “người anh hùng đã chết cho đời sau”; một đền thờ bà Phi Yến vợ vua Gia Long, bà đã khuyên Gia Long không nên “cõng rắn cắn gà nhà”, bị vua Gia Long giam ở một hang sâu cho đến chết, con bà khóc đòi mẹ, đã bị Gia Long vứt xuống biển. Sự kiện ấy còn để lại tại Côn Đảo một câu ca dao bất hủ:

“Gió đưa rau cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay”.

Đã từ lâu tôi đã thuộc câu ca dao này. Đến Côn Đảo tôi mới biết rõ sự tình của nó: Cải là hoàng tử Cải, con bà Phi Yến và Răm là tên thường gọi của bà.

Đến Côn Đảo, hầu như không một ai không đến thắp hương ở hai đền thờ thần này. Còn dân Côn Đảo, có gì cần cầu xin đều đến hai đền thờ này cúng vái. Dân bảo hai đền này thiêng lắm.

Nói đến các vị thần, tôi sực nhớ tới một bài thơ của một nhà thơ quen biết:

“Đời là một cuộc phù du
Ai lo cho nước phục thù cho dân
Một đời liêm khiết, cách tân
Dân tin phong thánh phong thần thiên thu”.

Chị Võ Thị Sáu được dân yêu, dân tin phong thần cho cũng với ý nghĩa ấy.

Chỉ riêng tiếng hô của chị Võ Thị Sáu khi 7 nòng súng đã đặt ngón tay vào cò súng, trong tích tắc nữa súng nổ trong án tử hình:

“Đả đảo thực dân Pháp.

Việt Nam độc lập muôn năm.

Hồ Chủ tịch muôn năm.”

Thì đó cũng chính là lời thề của người lính chúng tôi khi cầm súng đi giải phóng miền Nam. Sự đồng điệu ấy, chính là ý chí của một thời đại anh hùng.

Hôm nay đang nhớ chị Võ Thị Sáu, đi trên đường Lý Thường Kiệt của Huế, bên Trường tiểu học Lê Lợi, tôi bỗng nghe tiếng hát của các em từ trong trường vọng ra:

“Mùa hoa lêkima nở, ở quê ta miền đất đỏ, thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng đã chết cho đời sau.
Người thiếu nữ ấy như mùa xuân, chị đã dâng cả cuộc đời, đi chiến đấu với bao niềm tin và chết vẫn không lùi bước…”

Nghe các em hát, tôi thật sự xúc động, thì ra thế hệ các em nhỏ bây giờ vẫn không hề quên chị Sáu, vẫn lấy tấm gương của chị làm hướng đi cho thế hệ mình..

(còn tiếp…)

Xem tiếp: Viếng Mộ chị Võ Thị Sáu lúc nửa đêm

Nghi thức + Bài khấn + Hướng dẫn ra Côn Đảo thắp hương chị Sáu

Rate this post