11 phi tần được sủng ái nhất của vua Càn Long gồm những ai?
Dưới đây là chân dung 11 phi tần được Càn Long sủng ái nhất:
Càn Long Hoàng đế, húy là Ái Tân Giác La Hoằng Lịch (1711 – 1799), đây là vị vua có tuổi thọ lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc, thời kỳ trị vì của Càn Long Hoàng đế kéo dài hơn 60 năm; từ 11 tháng 10 năm 1736 đến 1 tháng 9 năm 1795; và là thời cực thịnh về kinh tế cũng như quân sự của nhà Thanh.
Theo một tích cũ, khi Càn Long tại vị, một vị quan là Lang Thế Ninh khi vào cung từng thấy cảnh vua cùng các phi tần vui đùa.
Càn Long hỏi vị quan rằng: “Khanh thấy trong các nàng ai là đẹp nhất?”. Lang Thế Ninh đỏ mặt trả lời: “Phi tần của Hoàng thượng vị nào cũng đẹp.”
Sau buổi hôm đó, vua Càn Long cho vẽ lại bức họa của 11 vị phi tần, đặt tên là “Tâm viết trì bình”. Ông xem qua 3 lần, sau đó cho cất kỹ, ra lệnh ai xem lén sẽ bị xử tử.
Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Phú Sát Thị
Chân dung Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Phú Sát Thị
Năm Ung Chính thứ năm (1727), bà được chỉ hôn cho hoàng tử thứ tư Ái Tân Giác La Hoằng Lịch (Càn Long) khi mới vừa tròn 16 tuổi.
Năm bà 25 tuổi, thái tử Hoàng Lịch đăng cơ, bà lên ngôi hoàng hậu. Hai năm sau, lễ tấn phong được cử hành chính thức.
Bà sinh được bốn người con: Hai hoàng tử và hai công chúa. Trong số đó, sau này chỉ còn lại duy nhất một công chúa còn sống và được sắc phong.
Bà nổi tiếng hiền hậu, thi hành tiết kiệm hợp lý, lại khoản đãi hậu cung, giúp đỡ Càn Long Đế chuyện trong ngoài hết mực đắc lực. Bà cũng là người được vua Càn Long cực kỳ yêu thương, sủng ái. Đến khi bà qua đời, vua vô cùng đau khổ, truy điệu không dứt, tạo thành chuyện truyền tụng mãi về sau.
Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao Thị
Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao Thị là con gái của Đại học sỹ Cao Bân. Cao thị nhập phủ Càn Long khi ông là Bảo thân vương, bạn đầu được phong Sở nữ, sau đó được phong là Trắc phúc tấn.
Ngày 26/1 năm Càn Long thứ mười hai (1745), bà được sắc phong là Hoàng Quý phi, thụy hiệu “Tuệ Hiền”.
Ngày 17/10 năm Càn Long thứ mười bảy, cùng với Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng Quý phi được an táng trong Lăng Vân Linh (Đông Lăng).
Thuần Huệ Hoàng quý phi Tô thị
Thuần Huệ Hoàng quý phi Tô Thị còn gọi là Tô Giai Thị, con gái của Tô Triệu Nam.
Thuần Phi sinh ngày 21/5/1713 năm Khang Hy thứ năm mươi ba, sau này đến tuổi trưởng thành mới vào hầu hạ Càn Long.
Sau khi Càn Long đăng cơ, bà được sắc phong là Thuận tần. Tháng 12 năm Càn Long thứ 2, Tô Giai thị được sắc phong là Thuận Phi, bức họa được vẽ sau khi tấn phong.
Tháng 11 năm Càn Long thứ 10, Thuần phi được tấn phong làm Quý phi. Tháng 4 năm Càn Long hứ hai mươi lăm, bà được sắc phong Hoàng Quý phi, cũng năm đó bà qua đời, thọ 48 tuổi.
Tô Giai thị sinh được hai hoàng tử và một công chúa, con trai là hoàng tử Vĩnh Dung, người giỏi thi thơ, hội họa, thiên văn, toán học.
Thục Gia Hoàng Quý phi Kim thị
Kim Giai thị, nguyên là Kim thị, sinh vào ngày 25 tháng 7 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 52, Mãn quân Chính Hoàng kỳ Bao y xuất thân, là hậu duệ một gia tộc gốc Triều Tiên, gốc gác hiện ở Nghĩa Châu.
Mới vào cung, Kim thị được phong làm Quý nhân, tháng 12 năm Càn Long thứ 2 năm 1737 bà được phong làm Gia tần.
Năm Càn Long thứ tư, Kim thị hạ sinh tứ Hoàng tử Vĩnh Thành, đến năm Càn Long thứ sau, bà được tấn phong làm Gia Phi, bức họa của bà được vẽ vào thời điểm này.
Năm Càn Long thứ 11 năm 1746, Gia phi tiếp tục sinh bát hoàng tử, sau một năm Cửu Hoàng tử lại ra đời.
Năm Càn Long thứ 13 năm 1748, bà được tấn phong làm Gia Quý phi, sau đó năm Càn Long thứ mười bảy năm 1751, bà sinh Thập nhất Hoàng tử.
Tới năm Càn Long thứ 20 năm 1755, Kim thị qua đời ở tuổi 40, bà được phong là Thục Gia Hoàng Quý phi.
Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu Ngụy thị
Lệnh phi – tức Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu Ngụy thị là con gái của Nội quản Ngụy Thanh Thái. Gia tộc của bà vốn xuất thân từ Hán tộc. Sau khi nhập tộc, gia tộc này đổi thành Ngụy Giai thị.
Năm 1745, bà nhập cùng vào làm Quý nhân, tháng 11 năm Càn Long thứ 10 được phong là Lệnh tần.
Tháng 4 năm Càn Long thứ 14 năm 1749, bà được tấn phong Lệnh phi, bức chân dung cũng được vẽ vào thời điểm này.
Năm Càn Long thứ 30, Ngụy thị được tấn phong làm Hoàng Quý phi.
Sau khi Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu qua đời, Càn Long không hề lập Hoàng hậu. Chính vì vậy, Hoàng Quý phi chính là người cai quản tam cung lục viện.
Năm Càn Long thứ 40 năm 1775, hưởng thọ 49 tuổi, thụy hiệu là Lệnh Ý Hoàng Quý phi.
Bà là người sinh được nhiều con nhất cho Càn Long, trong đó Hoàng tử Ngung Diễm sau này là vua Gia Khánh.
Thư phi Diệp Hách Lạp thị
Thư phi Diệp Hách Lặc thị là người tộc Mãn Châu, Diệp Hách Na Lạp thị thuộc Mãn quân Chính Hoàng kỳ, xuất thân của bà cực kì hiển hách vì bà là người thuộc dòng dõi của Diệp Hách bối lặc Kim Đài Cát, là anh trai của Hiếu Từ Cao hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị, mẹ sinh của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực.
Năm Càn Long thứ mười bốn bà vào cung là quý nhân, tháng 11 cùng năm, bà được sắc phong làm Thư tần.
Năm Càn Long thứ 14, bà được tấn phong làm Thư phi, bức chân dung được vẽ vào thời điểm này.
Năm Càn Long thứ 16, bà sinh Thập hoàng tử, bà qua đời vào năm Càn Long thứ bốn mươi hai, hưởng thọ 50 tuổi.
Khánh Cung Hoàng Quý phi Lục thị
Khánh Cung Hoàng quý phi là người Hán, con gái của Lục Sĩ Long, cũng như Thuần Huệ Hoàng quý phi đều là xuất thân dòng dõi một gia đình thường dân, không chức vụ lẫn tước vị.
Năm Càn Long thứ 5, Lục thị nhập cung, được phong làm Quý nhân. Năm Càn long thứ 16 1740, bà được phong là “Khánh tần”. Bức họa chân dung của bà được vẽ vào thời điểm này.
Năm Càn Long thứ 24, Lục thị được tấn phong là Khánh phi, và được tấn phong làm Khánh Quý phi năm Càn Long thứ ba mươi ba.
Năm Càn Long thứ 39, 1774, bà qua đời, thọ 51 tuổi, không có con. Bà là dưỡng mẫu của Thanh Nhân Tông Gia Khánh đế, được ông đánh giá là người mẹ “dưỡng dục chu toàn”, “hiền hậu như mẹ đẻ”.
Khi bà mất, tang lễ được tổ chức vô cùng long trọng, được truy phong làm “Khánh Cung Hoàng Quý phi”.
Dĩnh Quý phi Ba Lâm thị
Dĩnh Quý phi Ba Lâm thị là người Mông Cổ chính gốc, là con gái của Đô Thống Bát kỳ, Khinh xa Đô úy Nạp Thân.
Lâm thị nhập cung khi Càn Long mới đăng cơ, được sắc phong là Dĩnh tần vào năm Càn Long thứ 1, 1751. Đến năm Càn Long thứ 24, 1759, bà được tấn phong là Dĩnh phi.
Năm Gia Khánh 13, 1798, Thái thượng hoàng Càn Long ra chiếu chỉ: “Dĩnh phi tại vị lâu năm, lại quá tuổi thất tuần, nên tấn phong làm Quý phi”.
Sau này, Gia Khánh hoàng đế tôn bà lã Dĩnh Quý thái phi, ở tại Khang Cung.
Năm Gia Khánh thứ 5, em trai Hoàng đế Gia Khánh là Ái Tân Giác La Vĩnh Lân một mình tổ chức thọ thần cho Dĩnh Quý phi. Vì không có con cái, lại một mình đơn độc trong thâm cung đã lâu, Lâm thị rất vui.
Tuy nhiên việc này khiến Hoàng đế nổi giận, khiến Dĩnh Quý phi trở nên buồn bã và lo lắng. Chỉ hai mươi ngày sau đó, bà qua đời, được an táng tại phi viên tâm trong Dụ Lăng.
Hân Quý phi Đới Giai thị
Hân tần – tức Hân Quý phi Đới Giai thị – là con gái của Tổng đốc Tô Đồ, người gốc Mãn Châu.
Năm Càn Long thứ mười tám, Đới Giai thị nhập cung, năm Càn Long thứ 19, bà được tấn phong làm Hãn tần, bức chân dung của bà cũng được vẽ vào thời điểm này.
Năm Càn Long thứ hai mươi tám, 1763 bà được tấn phong làm Hãn phi, tháng 11 cùng năm bà qua đời.
Đôn phi Uông thị
Đôn phi Uông thị xuất thân Mãn quân Chính Bạch kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long hoàng đế. Bà là mẹ của Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa, vị công chúa được Càn Long Đế sủng ái bậc nhất.
Năm Càn Long thứ 28, 1763, bà nhập cung năm 17 tuổi, khi đó Hoàng đế đã 52 tuổi, được phong là Vĩnh thường tại.
Năm Càn Long ba mươi sáu, 1771, bà được tấn phong là Vĩnh Quý nhân, sau đó là Vĩnh tần.
Ba năm sau, bà được tấn phong là Đôn phi. Năm Càn Long thứ 40, Đôn phi hạ sinh Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa.
Năm Càn Long thứ 43, Đon phi vì giết hạ nhân mà bị giáng xuống là tần, 3 năm sau mới được khôi phục chức phi.
Đến năm Gia Kanhs thứ 11, Đon phi qua đời, thọ 61 tuổi. Con gái bà là công chúa Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa sau này gả cho Phò mã Phong Thân Ân Đức (con trai cả của Hòa Thân).
Thuận phi Hữu Nộ Lộc thị
Thuận phi Hữu Nộ Lộc thị, sau này bị giáng làm Thuận Quý nhân, là con gái của Tổng đốc Ái Tất Đạt
Năm Càn Long thứ 31, Hữu Nỗ Lộc thị nhập cung, được phong làm Quý nhân. Khi đó bà 18 tuổi, kém Càn Long 38 tuổi.
Năm Càn Long thứ 33, bà được phong Thuận tần, bảy năm sau được tấn phong là Thuận phi.
Năm Càn Long thứ 53, Thuận phi bị giáng xuống Thuận Quý nhân. Cùng năm đó, Thuận Quý nhân qua đời, hưởng thọ 41 tuổi.