Tục chơi diều sáo trong lễ hội Sáo Đền
Lễ trình diều tại hội Sáo Đền. Ảnh tư liệu
Văn bia lưu giữ tại Sáo Đền ghi như sau: Tục chơi diều sáo gắn với truyền thuyết bà Ngọc Dao đưa Lê Tư Thành về quê lánh nạn. Để giải sầu, bà thường cho con thi diều với trẻ con trong làng. Một truyền thuyết khác lại cho rằng tục thả diều nhằm tưởng nhớ Quốc công Đinh Lễ, người đã chỉ dẫn binh lính làm và thả diều vừa để động viên quân sĩ, vừa là ám hiệu chỉ huy quân. Vì thế, khi ông được cấp đất thế nghiệp ở An Lão, con cháu họ Đinh tổ chức thi thả diều để tưởng nhớ công lao của ông, dần dần trở thành một tục lệ trong lễ hội Sáo Đền. Dù là truyền thuyết nào đúng thì đều có chung một nội dung là tưởng nhớ công lao của tổ họ Đinh làng An Lão và Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao.
Theo cổ lệ, để có được cánh diều tham gia trong lễ hội người dân Song An đã phải chuẩn bị rất công phu từ trước đó cả năm. Về cơ bản diều sáo gồm 2 phần chính là diều (vật mang chở) và sáo (vật tạo âm thanh).
Khung diều được làm bằng tre, vì thế để có được một chiếc diều đạt chuẩn thì việc chọn tre rất được coi trọng. Tre được chọn phải là cây tre đực già mọc ở giữa bụi, thân thẳng, dóng dài, dày, không có vết xước (dân gian còn gọi là tre mép voi), loại tre có tuổi 5 đến 10 năm. Tre được hạ từ tháng 5 đến tháng 10 Âm lịch, tốt nhất là tháng 9, 10, chẻ dọc thành các tay tre, độ dày mỏng tùy thuộc vào kích thước diều. Tre được xử lý chống mối mọt, chống ẩm, tạo độ dẻo bằng cách cho tay tre vào nồi nước vôi hoặc nước muối luộc kỹ hoặc nhúng vào lò vôi nào đang tôi. Sau đó, phơi tre trong bóng râm cho thật khô, treo lên gác bếp từ 2 đến 9 tháng tùy vào kích thước của tay tre để chống mối mọt. Khi đã có được những tay tre đạt chuẩn, tùy vào kích thước từng con diều mà người thợ làm diều tạo thành những chiếc khung to nhỏ khác nhau, khi vót phải thuôn đều như đuôi chuột, gò khung phải cân rồi uốn đều như cánh cung. Giữ khung diều là một “sống diều” bằng tre cứng to bản, nhô dài ra hai bên khung. Để sống diều gắn chặt vào khung, không bị xê dịch khi buộc dây, người thợ dùng dao tiện một vòng tròn ở hai đầu tạo thành một rãnh nhỏ. Khung diều sau khi được đẽo gọt cẩn thận được buộc chắc chắn và dùng các sợi dây nhỏ đan lưới hình mắt cáo hay bàn cờ để “gò” dáng cân đối đồng thời tăng thêm độ chịu gió và là “giá đỡ” cho phất (dán) giấy sau này. Với những chiếc diều có kích thước nhỏ chỉ cần một người đan lưới, nhưng với những chiếc diều có kích thước lớn từ 3m trở lên thì cần ít nhất hai người thao tác nhịp nhàng với nhau. Xong công đoạn đan lưới, người thợ làm diều sẽ tiến hành phất giấy diều. Giấy diều ngày xưa được làm từ giấy dó, được phất bằng quả cậy hoặc quả hồng xiêm non, giã nhuyễn, hòa với nước theo một tỷ lệ nhất định dùng làm chất kết dính dán giấy vào khung diều. Việc dán giấy diều không làm một lần mà nghệ nhân sẽ chia diều thành nhiều đoạn bằng nhau bắt đầu từ sống diều, mỗi đoạn cách nhau khoảng một gang tay, dán từ sống diều dán ra hai bên, dán hết đoạn này sẽ dán đến đoạn tiếp theo. Giấy được dán kín tạo thành áo diều. Vì thế dân gian còn gọi dán giấy diều là “vá diều”. Áo diều dán phải đảm bảo không quá căng cũng không quá chùng sẽ ảnh hưởng tới việc buông diều sau này. Một chiếc diều được coi là hoàn hảo phải có một màu áo mang tính đặc trưng. Xưa kia, người ta sẽ dùng quả cậy hoặc quả hồng xiêm xanh, giã dập lấy nhựa làm sơn, quét lên lớp áo diều ba lượt rồi phơi trong bóng râm (như dán quạt giấy). Tác dụng của lớp sơn này là bảo vệ áo diều, nếu có bay lên cao gặp ẩm hay mưa hoặc rơi xuống ao hồ sẽ không bị ướt, không bị gián nhấm. Mặt khác, khi lớp sơn này khô sẽ làm lớp áo diều căng lên như mặt trống, chuyển hóa thành màu nâu cánh dán, vừa đẹp mắt vừa tượng trưng cho quan niệm âm dương của dân gian. Công đoạn cuối cùng trong quy trình làm diều là làm dây buông diều. Xưa kia, dây được làm từ cật tre của cây tre non vẫn còn ngọn măng, rồi vót nhỏ, đem xử lý như cách xử lý với tay diều. Để nối lạt thành dây diều thì dùng sợi mây để nín các mối nối lại. Dây diều được cuộn lại bằng một ống tre chắc, mập.
Diều truyền thống ở Song An rất đa dạng, song chủ yếu tập trung ở ba loại: diều cánh roi (dáng thon mình hẹp, đều hai bên như 1 chiếc thuyền, khi bay lên cao sẽ cong như hình trăng non), diều bần (dáng mập mình rộng, như hình củ ấu), diều cánh cốc (hay diều cánh tiên, hình dạng cầu kỳ). Điểm khác biệt giữa diều Song An với diều các nơi khác không chỉ về hình dáng diều mà cả về kích thước của con diều. Từ xa xưa diều ở Song An đã nổi tiếng về độ to, độ dài. Chiếc nhỏ nhất cũng phải 2,5m trở lên, chiếc to phải từ 10 – 12m. Sở dĩ diều phải to như thế thì mới cõng được bộ sáo mà nó mang trên mình. Chính tiếng sáo trong hội Sáo Đền đã tạo nên một sắc thái văn hóa đặc trưng của trấn Sơn Nam Hạ xưa và cả ngày nay.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, kỹ thuật làm diều cũng có những sự thay đổi đáng kể. Trước đây nguyên liệu làm khung diều chỉ là tre thì nay nhiều loại vật liệu mới như sợi thủy tinh, fiber hay graphite carbon đã được đưa vào để giúp khung diều mạnh mẽ và nhẹ nhàng hơn. Nếu trước đây diều có bộ khung hình cố định, không thể di chuyển đi xa thì ngày nay người chơi đã sáng tạo những bộ khung diều có thể tháo, gấp gọn lại nhưng vẫn đảm bảo hình dạng truyền thống và độ bền chắc như mong muốn. Áo diều nay có thể làm bằng giấy bao bì, vải, màng nilon, vải dù, vải polyester, vải rip-stop… và phất bằng hồ, keo dán hoặc khâu cố định lên khung. Để diều dễ bay ổn định và có thể mang những bộ sáo lớn người chơi đã cải tiến thêm vào bộ phận đuôi. Có nơi chỉ gồm hai cánh tròn nhỏ cân đối hai bên xương sống diều (còn gọi là “dái diều”), có nơi thêm phần nối giữa đuôi và cánh diều bằng thân diều (có nơi gọi là “bẹn diều”).
Chế tác sáo diều đòi hỏi người thợ phải có kỹ thuật điêu luyện, trình độ thẩm âm tốt, đặc biệt phải thật cẩn thận và tỉ mỉ từ ngay khâu chọn nguyên liệu đến từng công đoạn chế tác. Thân sáo hay ống sáo được làm từ ống tre, nứa hoặc trúc của cây tre cái, ống rỗng, thời gian hạ cây tre cũng như với tre làm diều. Nếu may mắn kiếm được đoạn ống tre mà kiến làm tổ trong ống (trong ruột ống có độ sần sùi cao) thì sáo sẽ cứng cáp, không bị vỡ cũng như sẽ dễ lấy tiếng sáo hơn so với các loại khác. Khi đã hạ tre xuống, cắt ống sáo theo các kích thước khác nhau, phơi trong bóng râm cho khô, treo lên trên gác bếp từ 2 đến 9 tháng tùy vào kích thước sáo. Khi đã có ống sáo, người nghệ nhân dùng dao tiện một đoạn ở giữa thân sáo, sau này sẽ chích 1 đoạn ở đó làm chân cắm sáo vào diều. Sau đó chẻ bớt lớp vỏ cật bên ngoài đến đoạn tiện ở giữa thân sáo thì dừng lại, độ dày, mỏng tùy thuộc vào kích thước sáo cần làm, vót thật nhẵn bề mặt, dùng sơn ta quét lên thân sáo nhiều lớp, vừa có tác dụng làm kín thân sáo, vừa giúp sáo không bị thấm nước, mối mọt, lại có màu sắc bắt mắt. Dùng giấy ráp doa ống cho nhẵn bên trong và đều hai bên ống sáo. Chính giữa khoét một lỗ vuông thông qua thân ống tre, phía trong hai bên lỗ lấy hai đầu ống gắn hai miệng (còn gọi là bửng) sáo. Sau công đoạn tạo thân sáo là đến công đoạn tạo tấm chắn phong. Một chiếc sáo phải có hai tấm chắn phong hình tròn, bằng tre hay gỗ nhẹ, mỏng, bít lại bằng keo được chêm vừa khít vào giữa lòng ống sáo, chia thân sáo thành hai phần cứng. Thân sáo có hai đầu rỗng để gắn miệng sáo bằng mít vườn, gỗ sến hay sừng trâu. Tiện, gọt cho tròn, làm thành hình mai rùa, kích thước của miệng sáo bao giờ cũng lớn hơn ống sáo từ 1 – 1,5cm. Miệng sáo phải chích nghiêng, vát, tùy vào kích thước của sáo mà đục miệng sáo cho hợp lý để huýt gió, kết hợp với ống sáo tạo thành tiếng kêu. Cái khó của người làm sáo là làm sao chỉnh cho hai bên miệng cân bằng và phát ra cùng một thanh âm, đồng thời, các sáo trên một dàn phải “ăn” tiếng với nhau tạo nên một hợp âm mong muốn, độ rung tốt gọi là “sáo ngân”. Âm thanh của một bộ sáo thường được các nghệ nhân “định vị” gắn với các âm thanh quen thuộc thường ngày như: tiếng chuông (chùa, nhà thờ), tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng ốc (tù và)… Gần đây, cũng có người chỉnh âm sáo theo nhạc lý như: Hợp âm đô trưởng; hợp âm pha… Sáo đơn ở xã Song An thường dùng 4 loại phát ra những âm thanh như: Sáo tiếng chiêng, Sáo tiếng ốc, Sáo tiếng chuông, Sáo tiếng còi.
Người chơi diều sáo ở Song An dùng cả sáo đơn và sáo dàn; nhưng chủ yếu là dùng sáo dàn vì sáo dàn có âm thanh đa dạng, phong phú hơn. Về sáo dàn, chủ yếu là sáo gồm 2, 3, 5 ống sáo với tên gọi chung là cồng 2, cồng 3, cồng 5. Hiện nay giới trẻ còn phát triển thêm bộ 7, bộ 9, bộ 12 sáo. Chế tác sáo diều không có sự thay đổi đáng kể nào kể từ khi nó ra đời.
Tục thi diều sáo chỉ có vào ngày đại lễ (ngày 25 tháng Ba Âm lịch), gắn liền với các nghi lễ linh thiêng và có nhiều thể lệ khắt khe cùng với nội dung phong phú như: Thi diều to, sáo đẹp, thi sáo hay và độc đáo nhất là thi thả diều sáo qua câu liêm. Chiều ngày 25 là ngày đông vui, đặc sắc nhất của hội Sáo Đền. Trong buổi chiều này có các nghi lễ linh thiêng gắn liền với tục thi thả diều sáo qua câu liêm bao gồm: Lễ trình diều, lễ cầu phong, lễ rước Thánh mẫu ngao du sơn thủy và thi thả diều qua câu liêm.
Lễ trình diều: Vào lúc 13 giờ, đoàn rước kiệu, chủ diều tham gia thi diều vượt câu liêm cùng toàn thể nhân dân tề tựu tại sân đền để tiến hành lễ trình diều. Các diều dự thi đã được đánh số, phải là diều truyền thống (thường là diều cố định khung, được làm bằng tre, phất giấy dó hoặc các vật liệu khác, là diều thuyền, diều bần hay diều cánh tiên, không có đuôi, có đuôi thì phải bỏ đuôi), xếp thành các hàng ngay ngắn trước cửa Mẫu. Các chủ diều trong trang phục chỉnh tề cũng xếp hàng ngay ngắn bên cạnh. Vị Thủ nhang sẽ đọc số thứ tự của con diều và tên của chủ diều trước cửa Thánh mẫu, với sự chứng kiến của đông đảo nhân dân tham gia lễ hội. Ngoài ý nghĩa là trình diện diều của các chủ diều với Thánh mẫu, còn ngầm thể hiện sự kính trọng của các chủ diều với Thánh mẫu đồng thời cầu mong bản thân cùng với gia đình được Thánh mẫu che chở và diều của mình vượt qua được cuộc thi.
Sau lễ trình diều là lễ cầu phong, cầu cho gió lên để cuộc thi thả diều hôm nay diễn ra suôn sẻ. Nghi lễ cầu phong này gắn liền với nghi lễ cầu mùa của cư dân nông nghiệp xưa. Thủ nhang thỉnh Thánh mẫu xin âm dương bằng hai đồng xu để xin sự đồng ý cho tổ chức thi sáo diều. Xin được âm dương, vị Thủ nhang sẽ đánh ba hội trống dài để báo hiệu với đất trời, cỏ cây hoa lá, vạn vật rằng lòng thành của dân chúng đã được chứng giám, gió sẽ nổi lên. Như có một sự linh thiêng nào đó trong lễ cầu phong này bởi khi hồi trống dứt cũng là lúc gió Tây Nam cấp 3 – 4 nổi lên trong sự mong ngóng, hân hoan của toàn thể nhân dân tham gia lễ hội.
Khi lễ cầu phong kết thúc, toàn thể nhân dân sẽ rước Thánh ngự giá cuộc thi thả diều qua câu liêm. Tất cả mọi người trong đoàn rước trang phục chỉnh tề, màu sắc theo quy định, ai vào việc nấy, chờ dứt ba hồi trống chiêng thì bước vào rước theo thứ tự đội cờ, đội trống chiêng, đội bát bửu, bàn nhang, bàn ngũ quả, phường bát âm, đến kiệu của thần. Kiệu Mẫu do các cô thanh nữ trong làng khiêng, tiếp đến là kiệu của các tướng họ Đinh, kiệu của các công chúa, kiệu Thành hoàng, tiếp đến là các vị bô lão, các chủ diều đội diều, toàn thể nhân dân tham gia lễ hội. Đội múa sư tử với trống chiêng sôi động làm cho không khí lễ hội thêm náo nhiệt. Trong tiếng chiêng trống rộn ràng, cờ xí rợp trời, đám rước đi qua cổng chính, vòng bên trái rồi đi quanh hồ bẩy mẫu trước cửa đền. Đến bãi đất trống đã được chuẩn bị từ trước để thi thả diều, đoàn rước dừng lại, các kiệu xếp ngay ngắn chỉnh tề, vị Thủ nhang sẽ tiến hành thả diều để Thánh mẫu ngự lãm trước. Diều thả để Thánh mẫu ngự lãm chính là con diều truyền thống, làm bằng giấy dó, bên trên gắn sáo, đã được trưng bày từ rất lâu trong cung cấm. Khi diều đã bay lên cao, vị Thủ nhang sẽ buộc chiếc diều ấy vào một chiếc cọc đã được đóng sẵn ở cạnh hồ; kiệu được rước lại về đền.
Thi thả diều vượt qua câu liêm. Ảnh tư liệu
Khi đoàn rước kiệu Thánh về đến đền, các chủ diều sẽ bước vào cuộc thi thả diều qua câu liêm. Quy chế thi diều vượt câu liêm được Ban tổ chức qui định rõ: Diều dự thi có kích thước từ 2,5m trở lên, không có đuôi, đeo sáo phù hợp; Dây thả diều phải là dây dù hoặc dây gai, độ dài không quá 50m; Diều và người tham gia thi diều phải có số dự thi của Ban Tổ chức.
Ở khoảng đất nổi giữa hồ, người ta chôn phần cán của hai chiếc sào bên trên có buộc hai chiếc câu liêm (có hình dáng như chiếc liềm), được mài rất sắc, một chiếc cao 4,5m, một chiếc cao 5m, phần cán giữa 2 câu liêm cách nhau từ 0.3m – 0.5m, lưỡi quay vào nhau thì khoảng cách giữa hai lưỡi câu liêm chỉ còn từ 0.2 – 0.3m. Theo hiệu lệnh, các diều sáo đã được Ban tổ chức đánh số thứ tự bước vào cuộc thi. Lần lượt từng chiếc một thi, diều này thi xong mới đến diều khác. Một chiếc diều sáo dự thi có từ 2 người trở lên: Một người đâm diều (diều to có thể từ 2 người trở lên để nâng diều) và người buông diều. Người đâm diều là người cầm diều, đỡ diều, đẩy diều lên khi có hiệu lệnh của người buông diều; người buông diều là người cầm dây và điều khiển dây diều để diều có thể bay lên. Người đâm diều sẽ đứng ở khoảng đất giữa hồ, cách câu liêm 15m, người buông diều đứng trên bờ, cách câu liêm 35m. Dây diều được đặt vào giữa hai chiếc sào đã gắn câu liêm trước đó. Khi tiếng còi của trọng tài cất lên, người đâm diều và người buông diều kết hợp ăn ý với nhau, đoán hướng gió, cấp độ gió, chọn thời điểm căng dây cho phù hợp để đưa diều sáo vượt qua câu liêm bay lên trời. Các diều sáo nào được buông, dây diều vượt qua được hai lưỡi câu liêm, bay lên trời thì được công nhận thắng cuộc và được trao giải thưởng. Khi diều đã vượt qua câu liêm thì được buộc vào những chiếc cọc đã được đóng sẵn trước đó ở ngay cạnh hồ, cách khu vực thi 20m. Ở cuộc thi này buộc người dự thi phải nhanh nhẹn, có kinh nghiệm và có sự phối hợp ăn ý hài hòa giữa người buông diều và người đâm diều bởi chỉ trong tích tắc là dây diều sẽ mắc phải lưỡi câu liêm, bị cắt đứt dây và rơi xuống.
Tục chơi diều sáo ở Song An trải qua gần 600 năm, có giá trị lịch sử sâu sắc bởi nó chứa đựng những câu chuyện lịch sử về một thời kỳ dựng nước và giữ nước của nhà hậu Lê ở trấn Sơn Nam Hạ nói chung và quá trình khởi dựng, phát triển làng An Lão nói riêng. Tục chơi diều sáo đã thể hiện được tình yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc sống của người dân nơi đây được gửi gắm qua cánh diều bay bổng và tiếng sáo vi vu. Đó là những phút thăng hoa của người dân lao động, là ý chí vượt lên mọi gian lao thử thách để mưu cầu hạnh phúc. Đồng thời cũng là niềm kiêu hãnh và khát khao một cuộc sống bình yên của con người. Thi đấu sáo diều, sâu xa là một nghi thức phổ biến của cư dân nông nghiệp Việt Nam nói riêng và của khu vực Đông Nam Á nói chung. Diều sáo có sự liên quan đến tiết khí và mùa màng của nghề nông, là biểu tượng của sự khô ráo mà cư dân nông nghiệp mong đợi trong suốt những ngày ẩm ướt, mưa lũ. Diều lên cao, sáo kêu to, rõ tiếng báo hiệu một thời tiết tốt lành, mặt khác nó còn có tác dụng điều hòa âm dương, nối mối quan hệ giữa trời với đất, giữa cao với thấp, giữa khô tạnh và ẩm ướt. Tục chơi diều sáo còn góp phần cố kết cộng đồng làng xã và cộng đồng những người chơi diều ở các địa phương khác. Thả diều là một sản phẩm văn hóa của cộng đồng có giá trị, ảnh hưởng tích cực và cần thiết đến đời sống tinh thần của người dân. Chơi diều sáo còn mang tính khoa học, giáo dục và giải trí bởi diều sáo cũng như các trò chơi dân gian khác có nguồn gốc sâu xa từ thực tiễn lao động sản xuất, được ông cha ta đúc kết từ nhiều thế hệ: kỹ năng, kiến thức trong làm diều; rèn luyện tính kiên trì, khéo léo, nắm được các nguyên tắc vật lý như lực nâng, trạng thái cân bằng, hiểu thêm về hình học, khí động học, kết cấu, vật liệu…; mang đến sự hưng phấn cho người chơi.
Với giá trị tiêu biểu, Tục chơi diều sáo trong lễ hội Sáo Đền được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 4586/QĐ-BVHTTDL ngày 20/12/2019./.