100 năm ngày sinh nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận
Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận sinh vào ngày Quốc khánh Pháp – đất nước có nền văn hóa mà ông vốn rất yêu quý. Sinh ra và lớn lên tại TP. Đà Nẵng và sống trong ngôi nhà nằm kề ngay trên bờ biển nên sau này khi đã chọn Hà thành làm nơi sinh sống và lập nghiệp ông vẫn luôn mang nặng trong lòng nỗi nhớ “đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm”.
Nhà thơ Lưu Quang Thuận thời trẻ. (Ảnh: Gia đình cung cấp)
Suốt những năm dài đất nước chia cắt, không có dịp về thăm quê nội, nhưng chúng tôi vẫn “nhìn thấy” quê hương thật rõ nét qua lời kể của ông. Sông Hàn, bãi biển Mỹ Khê, Chợ Cồn, Cổ Viện Chàm, Non Nước, Ngũ Hành Sơn… những địa danh ấy đã trở nên quen thuộc trong ký ức tuổi thơ của chúng tôi.
Cha tôi học tiểu học ở Đà Nẵng, lớn lên một chút ông xa nhà ra Huế trọ học. Ông học giỏi từ nhỏ, có năm đã từng đoạt giải Pháp văn của mấy tỉnh Trung Kỳ. Cha tôi thường nói rằng một trong những nỗi bất hạnh nhất của đời ông là sớm thiếu vắng tình mẫu tử. Bà nội tôi mất năm 1937. Khi đó cha tôi 16 tuổi, sau ông còn 3 người em trai nữa, cậu em trai Lưu Quang Lũy (tức nhà thơ Lưu Trùng Dương sau này) ngày ấy mới 6 tuổi.
Sau khi mẹ mất được ít lâu, cha tôi vào sống tự lập ở Sài Gòn, vừa đi học, vừa đi làm và bắt đầu viết truyện, làm thơ đăng báo. Ông nội muốn cha tôi học hành đỗ đạt, rồi ra trở thành thầy phán, thầy ký. Nhưng ông lại thích ngao du giang hồ, say mê viết kịch và làm thơ. Năm 1941 cha tôi viết vở kịch đầu tay: Chu Du đại chiến Uất Trì.
Đây là vở kịch vui một màn. Vừa ra đời, vở kịch đã được Hội Hướng đạo học sinh sinh viên Đà Nẵng dàn dựng và biểu diễn nhiều lần ở Đà Nẵng, Hội An. Năm 1945, vở này còn được diễn ở Hà Đông. Năm 1942, tập thơ Tóc thơm được xuất bản. Thành công bước đầu tuy hết sức nhỏ bé, nhưng cũng đã giúp ông có thêm niềm tin để tiếp tục thực hiện những ước mơ nghệ thuật của mình.
Về chốn xưa nhớ những câu thơ Việt Bắc
Vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cha tôi, VTV tổ chức thực hiện một bộ phim chân dung nghệ thuật về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Sáng ngày 12/7, gia đình chúng tôi may mắn được cùng đoàn làm phim có chuyến hành hương về nguồn, đến nơi cha mẹ tôi đã sống và làm việc suốt 9 năm kháng chiến. Đó là thôn Chu Hưng, xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ.
Nhà thơ Lưu Quang Thuận cùng vợ và con trai đầu Lưu Quang Vũ trên Hạ Hòa, Phú Thọ năm 1948. (Ảnh: Gia đình cung cấp)
Chúng tôi lại đi trên con đường mà cha mẹ chúng tôi đã từng đi cách đây 75 năm. Ngồi ô tô máy lạnh mát rượi chỉ 2 giờ đồng hồ là đến nơi, càng thương sao cha mẹ chúng tôi ngày đó phải trèo đèo lội suối, đi bè đi mảng, đi bộ ròng rã hàng mấy chục ngày mới tới.
Khi kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, huyện Hạ Hòa của Phú Thọ có nhiều cơ quan trung ương, Liên khu 10, quân đội, trường học đóng trụ sở. Nhiều người dân Hà Nội cũng tản cư về đây, hình thành cuộc sống đô thị kháng chiến với nhiều cửa hàng cửa hiệu đông vui tấp nập. Chính những điều kiện này mà Phú Thọ được coi là cái nôi của văn nghệ cả nước. Và xã Gia Điền (Hạ Hòa) được chọn làm nơi đầu tiên đặt trụ sở của Hội Văn nghệ Việt Nam. Ở mảnh đất này, các văn nghệ sĩ nổi tiếng gồm nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ trong thời kỳ đầu “nhận đường” đã dừng chân cho một hành trình dài lên Việt Bắc.
Cùng với đoàn văn nghệ sĩ kháng chiến đóng trụ sở và hoạt động tại Chu Hưng, gia đình nhà thơ Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh cũng cùng chuyến đi ấy và ở lại Gia Điền trong suốt thời kỳ kháng chiến. Ở đó, bà Khánh đã sinh hạ 3 người con trai là Lưu Quang Vũ (1948), Lưu Quang Hiệp (1951), Lưu Quang Điền (1953).
Ngày 17/4/1948, cậu bé Lưu Quang Vũ cất tiếng khóc chào đời nơi miền quê trung du ấm áp và bình dị. Tại đây, anh đã có chùm thơ nổi tiếng về Chu Hưng – mảnh đất hiện lên hết sức đẹp đẽ, thơ mộng và lãng mạn, không thể nào phai mờ trong ký ức: “Thôn Chu Hưng trăng sao rơi đầy giếng/ Nằm giữa bốn bề rừng rậm nứa lao xao/ Đường ven suối quả vả vàng chín rụng/ Cọ xanh rờn lấp lánh nước sông Thao“; “Nhà chon von khuất sau vườn ngô sắn/ Thôn nhỏ nặng tình kháng chiến 10 năm“.
Thời kỳ kháng chiến khó khăn gian khổ, cha tôi không có điều kiện sáng tác kịch nói, kịch thơ như sở trường của ông. Ông tập trung vào việc sáng tác thơ. Những bài thơ hàm chứa những nét sinh hoạt đơn sơ mà nồng thắm tình dân quân, tình đất nước:
“Chiến thắng quân về đeo súng giặc
Xóm làng khoan nhặt khúc dân ca
Anh đi chiến trận xa nhà
Năm mười hai tháng, tháng ba mươi ngày”
(Ngày Tết quân dân, 1950)
Nhà thơ Lưu Quang Thuận một đời đắm đuối với vẻ đẹp của văn chương, nghệ thuật. (Ảnh: Gia đình cung cấp)
Lưu Quang Thuận là người sống sôi nổi và tha thiết. Vẻ đẹp ẩn sau những lời thơ giản dị của ông là vẻ đẹp lịch sử của những năm tháng rất đỗi hào hùng:
“Bài thơ ngắn đem đề lên báng súng,
Chiến sĩ hò, em gái, mẹ già nghe
Xin chép lại bài thơ đêm chiến thắng
Thay món quà kháng chiến gửi về quê…”
(Quà kháng chiến, Việt Bắc 1948)
Đặc biệt có ý nghĩa đối với cha tôi là những bài thơ ông viết cho con. Tình cha con trong những áng thơ ấy không chỉ đơn thuần là những tình cảm gia đình mà còn được gắn với hiện thực kháng chiến:
“Hành quân mơ bóng con,
Chiều đông mưa mới tạnh,
Súng nổ dội sườn non,
Đường quê sương xuống lạnh.
Bé bỏng tấm hài nhi
Con nằm trong bụng mẹ;
Mưa nắng giục ngày đi,
Con chuyển mình khe khẽ.
Lòng cha êm ái thương
Lòng cha ngơ ngác nhớ…
Con ơi rền bốn phương
Nước nhà đang khói lửa.
Ở đây gần sông Lô
Trung tâm miền Việt Bắc,
Có suối chảy ven gò
Xuyên rừng cây bát ngát.
(…)
Chiều nay sương phủ trắng
Cha mơ hình dáng con
Tóc xòa bay giữa nắng
Ngẩng đầu trông núi non”.
(Gửi cho con, 11/1947)
Và đây là bài thơ tặng con trai đầu lòng là Lưu Quang Vũ để gửi gắm nỗi lòng của người cha thường xuyên công tác xa nhà:
“Nhớ buổi chiều xuân nắng trở hè
Con chào đất nước tiếng oe oe…
Đến nay gió lạnh mùa thu tới,
Thôn xóm hò ran gặt lúa về.
Súng nổ ngày đi, sáu tháng qua,
Đây vườn bưởi chín cạnh rừng hoa.
Con vừa sáu tháng răng chưa mọc,
Chiến sĩ hành quân giục trước nhà.
Tháng chín hương bay lúa ngập đồng.
Sông Đà đánh trận mở mùa đông,
Miền xuôi nổ súng vào lưng giặc,
Đông Bắc Lao Hà lại tấn công.
Thu thanh tiếng súng giữa chiều nay
Cha viết bài thơ gửi đến ngày
Con lớn con về thăm bưởi chín
Nghe vần thơ cũ đạn rền bay.
Không biết lòng con sang buổi ấy
Có vui có hận giống lòng cha?
Bây giờ theo pháo cha đi vội,
Nghe tiếng con cười trên nẻo xa”.
(Con vừa sáu tháng, Phú Thọ 1948)
Chiều sâu câu thơ đọng trong những nét, những cảnh tưởng chừng rất đơn giản chứa đựng những rung động da diết của một tâm hồn chân thành, đôn hậu với gia đình và đất nước. Người đọc bất ngờ khi biết những bài thơ mộc mạc ấy là của tác giả những tập thơ và những vở kịch thơ lịch sử trang trọng, đài các, cổ điển trong phong trào thơ ca lãng mạn trước năm 1945 như: Tóc thơm (1942), Yêu Ly (1942), Lê Lai đổi áo (1943), Lữ Gia, Nữ hoàng Ba Tư (1944)…
Tiếp nối ngọn lửa văn chương
Cha tôi là người rất say mê văn chương, nghệ thuật. Ông đã truyền cho các con mình niềm say mê bất tận ấy. Ông mong muốn chúng tôi lớn lên, tuy làm những ngành nghề khác nhau nhưng dù làm nghề gì thì cũng phải giữ được tâm hồn nghệ sĩ, biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp. Mấy anh em tôi, ngay từ nhỏ đã thường xuyên được ông cho đi theo mỗi khi tập vở.
Gia đình nhà thơ Lưu Quang Thuận Tết năm 1976. (Ảnh: Gia đình cung cấp)
Những buổi tập hoặc diễn thử rất ít người, thường chỉ ngồi kín một hai hàng ghế đầu. Chúng tôi được ngồi cạnh ông, say mê chăm chú theo dõi công việc của mọi người đang diễn ra trên sàn tập. Nhà tôi ở gần kề rạp Đại Nam. Mỗi buổi tối được theo cha sang đó xem diễn tập đã trở thành thói quen và niềm vui sướng của mấy anh em tôi.
Sau khi ở rạp hát về, cha tôi thường giảng giải, phân tích những cái hay, cái đẹp của vở diễn, nhận xét về diễn xuất của diễn viên. Ngay từ hồi chúng tôi còn nhỏ, cha tôi đã dạy cho chúng tôi biết cách phân biệt các làn điệu chèo. Cha tôi lấy vở Tấm Cám của mình ra làm ví dụ.
Có hôm thuận tiện, ông mời một cô diễn viên về nhà hát minh hoạ cho chúng tôi nghe. Nhiều năm qua rồi nhưng chúng tôi vẫn không quên cảm giác lâng lâng êm ả khi nghe bài Chức cẩm hồi văn của Tấm (trong lốt cây xoan đào) ru hoàng tử, điệu Ru xuân đầy cảm khái khi hoàng tử trở về làng Mai, điệu Con gà rừng gấp gáp như tiếng reo đắc thắng của mụ Cám khi đẩy được Tấm xuống ao, điệu Làn thảm rơi nước mắt của Tấm khi bị dì ghẻ ngược đãi, hay như màn hát Giao duyên đằm thắm của các liền anh, liền chị trong ngày hội làng. Cha tôi vẫn lấy làm tiếc rằng ông là người viết chèo mà lại hát không hay, múa không dẻo. Ông rất khâm phục tác giả Tào Mạt ở điểm này.
Cha tôi kể rằng khi dựng vở, Tào Mạt thường múa hát mẫu, làm thị phạm ngay tại chỗ cho diễn viên rất giỏi. Lúc đầu nghe nói tôi không tin. Tôi không thể hình dung một người như chú Tào Mạt chân tay to bè cứng lòng khòng, mỗi khi đến nhà tôi chơi thường mặc bộ quần áo bộ đội bạc mầu, hút thuốc lào sòng sọc, lại có thể là người hát hay múa khéo.
Thế nhưng một hôm cha tôi đã đề nghị ông “trình diễn” cho chúng tôi xem. Thoắt chốc, ông đã thành một người khác hẳn. Tay cầm chiếc quạt giấy, mắt liếc ngang, hai bàn chân chụm lại lướt nhẹ theo kiểu đuổi ngón trên nền đá hoa. Ông hát và diễn gần hết cả một trích đoạn trong một vở chèo cổ. Lũ trẻ con trong khu tập thể kéo đến bu kín cửa sổ xem mê mải. Cha tôi sợ ông mệt phải can mãi ông mới chịu dừng lại.
Cha tôi luôn luôn là người bạn lớn của các con. Trong những câu chuyện hàng ngày, trong mỗi bữa cơm, ông thường răn dạy chúng tôi không bao giờ được làm điều ác, phải biết thông cảm và chia sẻ với nỗi đau của người khác. Cha tôi dạy các con cùng mình quan tâm đến mọi việc, từ chuyện lũ lụt, hạn hán ở một vùng đất đến gia cảnh của một người bạn nghèo đang đau ốm. Những khi đi công tác xa nhà, ông thường viết thư cho các con kể tỉ mỉ về công việc, về thiên nhiên cảnh vật, về những con người ở nơi đó.
Trong đời thường, cha tôi có hai niềm say mê lớn, đó là bóng đá và thiên nhiên. Ông yêu thiên nhiên theo cách riêng của mình. Cha tôi có mấy giò phong lan và chậu cây đặt ở khoảng sân hẹp trước hiên nhà. Những lúc rỗi rãi, cha tôi lúi húi rất lâu trước mấy chậu cây, buộc buộc cắt cắt. Ông chú ý từng lá non, từng chồi cây mới nhú. Có lần tôi đi chơi xa thấy một loại lá cây lạ rất đẹp. Tôi hái mang về nhà. Cha tôi rất thích. Ông cắm vào cốc nước để trên bàn làm việc. Có hôm ông bảo tôi: “Con xem này, hơn mười ngày rồi nó vẫn sống, nó hút nước và lại còn đâm cả rễ nữa”.
Nhà thơ Lưu Quang Thuận và con gái Lưu Khánh Thơ, khoảng năm 1960 – 1961. (Ảnh: Gia đình cung cấp)
Sinh ra và sống chủ yếu ở thành phố nhưng cha tôi rất thích đi về nông thôn. Ông có một người bạn tên là Thể làm chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp ở Duy Tiên (Hà Nam), có những mùa hè ông đưa chúng tôi về đó sống một thời gian dài. Chủ nhà dành cho cha con tôi một gian nhà rộng có kê bàn để cha tôi ngồi viết, có mắc võng, có chõng tre để chúng tôi ngủ. Những lúc đó, cha tôi tỏ ra rất thú vị.
Cha tôi yêu thích bóng đá một cách kỳ lạ. Hầu như cha tôi rất ít khi vắng mặt trên sân vận động Hàng Đẫy mỗi khi có trận thi đấu. Có lần ông bị ốm không đi xem được, phải ngồi nhà nghe tường thuật qua đài truyền thanh. Nghe được một lúc không thấy cha tôi đâu. Mẹ tôi đi tìm thì thấy ông đang đứng ở góc phố nghe loa công cộng cùng với những người qua đường hâm mộ. Ông bảo nghe thế mới có “không khí”.
Có lần đi qua bãi sông Hồng, thấy hai đội học sinh đá bóng, ông dừng lại đứng xem và cổ vũ rất nhiệt tình. Đợt đi thực tế ở nông trường Điện Biên, lúc đó cha tôi đã 36 tuổi, nhưng ông vẫn hăng hái luyện tập và thi đấu. Ông giữ gôn cho đội tuyển của trung đoàn, thi đấu ở sân đồi A1 để tranh chức vô địch của toàn thể bộ đội Điện Biên. Ngày ông về Hà Nội, anh em trong đơn vị ai cũng tiếc.
Cả gia đình tôi đều bị cuốn vào cùng với niềm say mê của cha tôi. Tôi thấy cũng lạ, cha tôi là một người sống lặng lẽ, đơn giản, khiêm tốn. Ông rất yêu chiều và tôn trọng con cái, không bao giờ áp đặt một điều gì. Thế nhưng ở con người ông lại có một sức hút rất lớn. Chúng tôi đã lớn lên và chịu ảnh hưởng ở ông rất nhiều. Cha đã dạy chúng tôi yêu đất nước, yêu nghệ thuật bằng những điều thật cụ thể và gần gũi.
Suốt đời cha tôi sống với những niềm vui bình dị, khiêm tốn, chan hòa, tử tế với tất cả mọi người. Lúc sinh thời cha tôi thường nói: “Làm sao khi chết đi vào ngày thứ Hai thì Chủ nhật vẫn còn được đến sân Hàng Đẫy xem đá bóng, để khỏi phải làm phiền đến vợ con, bạn bè”.
Cha tôi ra đi nhẹ nhàng, thanh thản đúng như ông ao ước. Khi mất đi trong túi áo cha tôi chỉ có vài hào lẻ và một tấm vé đá bóng. Cha tôi mất tối thứ Bảy, ông không kịp xem trận bóng đá cuối cùng vào chiều Chủ nhật. Cũng như ông đã không kịp làm nốt những công việc còn dang dở, không kịp nhìn thấy sự khôn lớn, trưởng thành của chúng tôi – những đứa con mà ông hết lòng yêu quý.
Gia đình nhà thơ Lưu Quang Thuận và đoàn làm phim VTV tại thôn Chu Hưng, xã Ấm Hạ, huyện Hạ Hòa, Phú Thọ ngày 12/7/2021. (Ảnh: Gia đình cung cấp)
Cha tôi mất đã 40 năm. Nhưng những kỷ niệm về ông luôn luôn sống động và tràn đầy trong ký ức của mỗi chúng tôi. Thật khó mà có thể nói hết được. Trong trí nhớ của chúng tôi, cha bao giờ cũng là người hiền hậu và yêu thương các con hết mực. Cuộc đời ông có những con số, những sự kiện trùng hợp một cách ngẫu nhiên khá lạ lùng.
Ông sinh ngày 14/7/1921. Con trai đầu lòng Lưu Quang Vũ của ông sinh ngày 17/4/1948. Ông mất ngày 21/2/1981, đúng vào ngày sinh nhật lần thứ 15 cậu con trai thứ 5 mang tên người bạn thân nhất của ông là Lưu Quang Định. Cha tôi mất đột ngột vì bệnh tim ngay tại Nhà hát Lớn Hà Nội khi đang xem vở kịch Erostrat – Kẻ đốt đền cùng với mẹ tôi.
Bà kể lại rằng, khi vở diễn vừa mở màn, tiếng nhạc bùng lên thì cha tôi bỗng gục xuống và vĩnh viễn ra đi. Những người bạn trong giới sân khấu của cha tôi đều thấy kinh ngạc và lạ lùng vì điều đó. Tác giả Kính Dân viếng cha tôi câu đối:
– Đời khép lại khi màn trò hé mở
Cười là đây mà khóc cũng là đây
– Hồn bay lên giữa công chúng bùng sôi
Sống nơi đó, chết cũng về nơi đó.
Nhà thơ Hoài Anh viết: Tình sân khấu trọn đời men nóng hổi/ Anh sống là tác giả – sống như thơ/ Và chết là khán giả – chết như mơ.
***
Cha tôi không phải là một người thật nổi tiếng. Cuộc đời ông không có gì chói chang đặc biệt. Điều lớn nhất ông để lại cho chúng tôi là nhân cách của người nghệ sĩ một đời lao động, một đời trong sạch. Tình yêu và niềm tự hào về cha mình đã đi theo chúng tôi suốt đời.
Ngày cha tôi qua đời, anh Lưu Quang Vũ đã viết bài thơ Buổi chiều ấy. Nhưng anh không đưa cho ai xem mà chỉ cất riêng trong sổ tay của mình. Khi anh mất, lần giở trong đống bản thảo của anh, tôi mới thấy bài thơ này. Anh đã nói thay cho chúng tôi những suy nghĩ và tình cảm dành cho cha mình:
Tiếng con gọi cha không còn nghe nữa
Cha nằm kia bỗng nghiêm nghị lạ lùng
Chưa bao giờ cha nghiêm nghị thế
Cha chẳng đáp dù một lời rất khẽ
Người đã đi xa lắm mất rồi…
Chỉ nụ cười quen thuộc thoáng trên môi
Vẫn đang là mùa xuân ngoài đường tấp nập
Tiếng người, tiếng xe, tiếng cuộc đời náo động
Đi một mình im lặng
Giờ cha đang ở đâu?
Có lẽ nào
Khi cánh cửa cuối cùng khép lại
Chẳng còn gì ngoài cõi hư vô ?
Cha thường yêu những dòng sông không ngừng chảy
Sông Mã sông Hồng sông Cầu sông Đáy
Mỗi con sông một vùng đất yêu thương
Con nhớ sông Thao, rừng cọ bạt ngàn
Cái làng nhỏ tuổi thơ
Chiều mịt mù mưa núi
Cha ở mặt trận về
Gọi vang từ bên suối
Con ngựa trắng mình lấm lem đất bụi
Vai áo cha ướt đẫm trận mưa chiều
Chiếc mũ nan, tấm khăn dù, lưng gạo trong bao
Đã lâu lắm mẹ và chúng con chỉ ăn ngô cùng sắn
Chiều ấy khói nồi cơm toả nắng
Cha kể chuyện trận Đoan Hùng
Chuyện một vùng bưởi chín khắp triền sông
Nụ cười cha ấm như ngọn lửa
Con ngựa trắng cọ mình ngoài vách nứa
Gió bên thềm hoa sở lẫn mưa bay
Cha của chúng con đến phút cuối cuộc đời
Vẫn nụ cười buổi chiều năm ấy
Cả lúc gian nan cả khi người ta xử tệ với mình
Vẫn chiếc áo xanh
Ngày em con vào chiến trường gửi về cho bố
Những năm ấy nhà mình thật nghèo
Mấy đứa lớn đều đi xa
Các em còn nhỏ cả
Con đọc thư mẹ kể:
Cha làm việc thâu đêm
Chỉ ấm chè xanh với mấy củ khoai lang
Làng sơ tán ngọn đèn dầu thao thức…
Cha chẳng thích thói yếu mềm khóc lóc
Sợ cha không vui, con chẳng dám khóc nhiều
Nhưng lúc này cho con được ngồi bên
Bát chè xanh con rót đặt trên bàn
Nén hương này con thắp
Sau làn khói xanh mờ
Con như thấy chập chờn bóng ngựa trắng buổi chiều xưa
Bay trên đồi cỏ biếc
Một dòng sông nắng chói chảy về xa
Cha vẫn còn kia như sông nước hiền hoà
Vẫn ở quanh con như ánh sáng trong nhà
Trong mỗi chúng con, trong mỗi ngày con sống
Trong hoa trái của cuộc đời bất tận…
Ngỡ cha gọi ngoài kia
Như chiều ấy ghé về
Đồi cọ mờ sương khói
Cha mở cửa: áo ướt đầm mưa núi
Nụ cười vui như ngọn lửa hồng.
(Buổi chiều ấy, 1981)
Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận (1921 – 1981):
*Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2000
*Tác phẩm chính:
- Kịch bản chèo: Tấm Cám, Mối tình Điện Biên, Cành đào ra trận, Nàng Sita
- Kịch thơ: Yêu Ly, Lê Lai đổi áo, Kiều Công Tiễn, Nữ hoàng Ba Tư, Người Hoa Lư, Hạt muối trăm năm
- Kịch nói: Quán Thăng long, Cô Giang, Hoàng Hoa Thám Thơ: Tóc thơm (1942), Việt Nam yêu dấu (1943), Lời thân ái (1950), Mừng đất nước (1960), Cám ơn thời gian (1981).