08 Trí Huệ Ba La Mật
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 4: DUYÊN GIÁC VÀ BỒ TÁT THỪA PHẬT GIÁO
Bài Thứ 8 (tt)
Độ thứ sáu:
Trí Huệ Ba La Mật
A. Mở
Đề
Trong đạo Phật,
hai tiếng vô minh được nhắc nhở đến luôn, vì chính vô minh là nguồn gốc, là đầu
dây mối nhợ của đau khổ của sanh tử luân hồi. Phật thường dạy: “Cái khổ
của lạcđà, của lừa ngựa chở nặng mãn kiếp, cái khổ trôi lăn trong tam giới chưa
gọi là khổ. Ngu si không trí huệ tin tưởng sai lạc, không biết hướng đi, cái ấy
mới thật là khổ”.
Ngài còn dạy
một cách mạnh mẽ, dứt khoát hơn: “Si là gốc của tội lỗi, Trí huệ là gốc
của muôn hạnh lành”. Chúng ta là Phật tử chúng ta không muốn gây tội lỗi
để chịu quả khổ đau, chúng ta chỉ mong làm được các hạnh lành để hưởng phước
quả và được giải thoát. Vậy tất nhiên chúng ta phải tu huệ, thì Trí huệ Ba la
mật.
B. Chánh
Đề
I. Định
Nghĩa
Trí huệ là gì?
“Trí” phiên âm chữ phạn là Phã na; “Huệ” phiên âm chữ Phạn
là Bát nhã. “Trí” có nghĩa là quyết đoán; “Huệ” có nghĩa là
giản trạch, Tự điển Phật học Trung Hoa định nghĩa như sau: “Trí là biết
Tục đế và Huệ là thông hiểu Chân đế”.
Cũng có thể
nói: Trí là thể tách sáng suốt trong sạch, Huệ là cái Diệu dụng xét soi tự tại.
Trí huệ Ba la mật là thể tách sáng suốt có khả năng soi sáng sự vật một cách
thấu đáo tinh tường đến nơi đến chốn, không thể sai lầm được.
II. Các Loại
Trí Huệ
Trí huệ như
định nghĩa trên là trí huệ của đạo Phật, chứ không phải trí huệ phổ thông,
thường dùng trong các sự học hỏi hiểu biết, suy luận hằng ngày trong đời.
Theo triết học
Phật Giáo, khả năng nhận thức có hai loại: Hiện lượng và tỷ lượng.
1. Hiện lượng:
Là sự nhận biết trực tiếp không cần qua trung gian suy luận. Hiện lượng lại
chia làm hai:
Chân hiện
lượng, là nhận thức trực tiếp mà đúng.
Tợ hiện lượng,
Là nhận thức trực tiếp mà sai
2. Tỷ lượng: Là
sự nhận biết qua trung gian suy luận. Tỷ lượng cũng có hai thứ:
Chân tỷ lượng,
là lốihiểu biết bằng suy luận đúng đắn.
Tợ tỷ lượng, là
lối hiểu biết mà suy luận mà sai lầm.
Hiện lượng của
địa vị phàm phu rất kém cỏi và phần nhiều là tợ hiện lượng. Tỷ lượng của địa vị
phàm phu lại còn kém cỏi hơn nữa và phần nhiều là tợ tỷ lượng. Đứng về phương
diện tính chất, Đạo Phật chia trí huệ ra làm hai loại lớn là ” Căn bản
trí” và ” Hậu đắc trí”.
1. Căn bản trí:
Căn bản trí, là giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã có sẵn, nhưng vì
bị phiền não che lấp, nên chưa phát chiếu ra được.Có thể so sánh căn bản trí
như là một chất kim khí quí báu (vàng, bạc) đang ở trong trạng tahí khoáng
chất, nằm lần lộn với đá (phiền não vô minh)
2. Hậu đắc trí:
Hậu đắc trí, là trí huệ có được nhờ công phu tu tập như trì giới, thiền định
v.v…Có thể so sánh Hậu đắc trí như chất kim khí (vàng, bạc) được lọc từ
khoáng chất ra và không còn lẫn lộn với đất đá, bụi bặm nữa (phiền não, vô
minh).
Theo Duy thức
học, sau khi đạt đến địa vị Giác ngộ, nghĩa là có được “Hậu đắc trí”,
thì tám thức chuyển thành bốn trí:
Thức thứ tám, A
lại da có tác dụng là chấp trí sanh mạng và chủng tử, được đạt đến địa vị vô
lậu và biến thành “Đại viên cảnh trí” (trí sáng như bức gương lớn và
tròn đầy, tượng trưng cho biển cả chơn như).
Thức thứ bảy,
Mtạ na có tác dụng là chấp ngã, biến thành “bình đẳng tánh trí” (trí
có năg lực nhận thức cách bình đẳng, vô ngã của vạn pháp).
Thức thứ sáu, Ý
thức có tác dụng là phân biệt, biến thành “Diệu quan sát trí” (trí có
năng lực quan sát thâm diệu).
Năm thứ cuối
(nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức) biến thành “Thành sở
tác trí” (trí có năng lực nhận thức cùng khắp và thần diệu)
III. Làm Thế
Nào Để Có được trí Huệ?
Muốn có được
trí huệ, đức Phật chế ra nhiều pháp tu. Trong số nhiều pháp tu ấy thì
“Văn, Tư, Tu” và “Giới, Định, Huệ” là những pháp thường
được nhắc nhở và thực hành nhiều nhất.
Văn, Tư, Tu:
Văn, Tư, Tu là ba pháp tu để có được trí huệ:
Văn huệ: là huệ
do tia nghe âm thanh, mắt thấy âm tự của Phật, hay qua các kinh điển mà hiểu
được nghĩa lý.
Tư huệ: là huệ
do trí suy nghĩ, tìm tòi, rõ được nghĩa lý, hiểu được sự thật.
Tu huệ: là huệ
do tu hành thẻ nghiệm và thể nhập chân lý, mà gíac ngộ, chứng được sự
thật.
Văn, tư, tu rất
tương quan mật thiết với nhau, hành giả cần phải chuyên tu cả ba thứ, không thể
bỏ qua một thứ nào mà thành tựu được. Hãy nghe Phật dạy:
” Văn huệ,
tư huệ, tu huệ, ba môn khuyết một không được. Nếu ai nghe mà không suy nghĩ,
thì như làm ruộng mà không gieo mạ; nếu suy nghĩ mà không tu, thì như làm ruộng
mà không tát nước, bừa cỏ, rốt cuộc không có kết quả. Ba huệ được đầy đủ thì
chứng quả Tam thừa?” (Sa Di thập giới).
Giới: là lời
răn dạy của Phật )xem lại bài Trì giới Ba la mật).
Định: là thiền
định, giữ cho tâm ý không loạn động, để suy nghiệm đến những vấn đề căn bản của
Đạo (xem lại bài Thiền Định Ba la mật).
Huệ: là sự phát
chiếu của Trí, sau khi đã tẩy sạch phiền não và vô minh.
Giới, Định, Huệ
tương quan mật thiết với nhau: Do trì giới mà thân tâm không loạn động. Do thân
tâm không loạn động mà tâm trí được Định. Tâm trí khi đã định thì Trí huệ phát
chiếu.
Ngược lại, Trsi
huệ phát chiếu thì tâm dễ Định, Tâm đã Định thì Trì giới không khó khăn.
Tóm lại: Giới,
định, huệ, đều tương duyên tương quan mật thiết với nhau, một cái tăng thì hai
cái kia cũng tăng.
IV. Công
Năng Của Trí Huệ
Như chúng ta đã
thấy trong phần chia loại, trí huệ khi đã đạt đến địa vị Giác ngộ (tám thức
chuyển thành bốn trí) thì công năng, diệu dụng của nó rộng lớn vô cùng, không
thể nói hết. Tuy thế, để có một quan niệm tương đối rõ ràng, chúng ta có thể
nêu lên ba công năng chính của trí huệ như sau:
1. Dứt trừ
phiền não: Phiền não là do mê lầm phát sinh. Khi trí huệ đã có thì mê lầm phải
mất, như khi ánh sáng phát ra thì bóng tối tất phải tan biến. Mê lầm đã mất thì
phiền não tất không còn phát sinh nữa.
2. Chiếu sáng
sự vật: Sự vật bị vô minh che khuất, như màn sương sớm che phủ cảnh vật, nay
trí huệ phát chiếu vào sự vật, chẳng khác gì khi ánh sáng mặt trời lên, thì màn
sương ất phải tan biến, lúc bấy giờ thực tướng thực tánh của sự vật được lộ bày
như thật.
3. Thể nhập
chân lý: Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì người ta với người, ta với vật
tưởng như riêng biệt, sai khác. Nay nhờ trí huệ soi sáng, thấy rõ được tâm cảnh
đều chơn không, nên thể nhập được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.
C. Kết
Luận
Gíá trị và công
năng của trí huệ lớn lao không thể nói hết. Nó là cứu cánh của người Phật tử.
Cứu cánh ấy, chúng ta phải cố đạt cho được.
Trước khi nhập
Niết Bàn, đức Phật cũng đã thiết tha khuyên các Đệ tử phải trao dồi trí huệ như
sau:
” Trí huệ
là chiếc thuyền kiên cố chở khỏi biển già, đau, chết; là ngọn đèn lớn chói sáng
vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt
gãy cây phiền não. Vậy các người phải lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập mà tự
tăng ích cho trí huệ mình”. (Kinh Di Giáo).
Những lời nhắn
nhủ thống thiết của đức Bổn sư, chúng ta không thể không ghi nhớ và thực hành
được.Vả chăng, trong sáu độ Ba la mật mà chúng ta đã học trong ba bài kế tiếp
này, mục đích cũng chỉ để dẫn đến độ thứ sáu là trí huệ, cái mứ c độ cuối cùng
của đạo Giác ngộ và giải thoát.
Cầu mong tất cả
quý vị Phật tử có được trí huệ để tự độ và tự tha đến bên kia bờ giải
thoát.
Tổng Kết Về Lục
Ba La Mật
Đạo Phật là đạo
từ bi, mà cũng là đạo giác ngộ. Từ bi thuộc về phước, giác ngộ thuộc về huệ.
Phướv và Huệ là hai cánh làm cho con chim đại bàng là hành giả làm bay thẳng
đến bờ giải thoát. Do đó, trong kinh thường nói: “Phước, Huệ song tu mới
thành ngôi Chánh giác”. Trong sáu pháp Ba la mật, bố thí và nhẫn nhục
thuộc về tu phước; thiền định và trí huệ thuộc về tu huệ; còn trì giới và tinh
tấn là hai chất liệu có công dụng kiểm soát và đốc thúc cho việc tu phước và
huệ được thành tự hoàn toàn.
Nếu chúng ta
đem so sánh một cách mộc mạc và đơn giản sáu pháp Ba la mật với chiếc thuyền
Bát nhã đưa người từ bờ mê đến bến giác, thì: Từ bi là thức ăn, nhẫn nhục là
nước uống, tinh tấn là cánh buồm và chèo, trì giới là bánh lái, thiền định là
la bàn và trí huệ là đèn đuốc. Sáu thứ ấy đều cần thiết cho người thủy thủ sẽ
gặp khó khăn trong công cuộc hành trình vạn dặm của mình.
Đứng về một
khía cạnh khác để nhận xét giá trị của lục độ, chúng ta sẽ thấy như thế này: Bố
thí và nhẫn nhục thuộc về bi, thiền định và trí huệ thuộc về Trí, còn trì giới
và tinh tấn thuộc về Dũng. Một Phật tử hoàn toàn phải có đủ ba phương tiện Bi,
Trí, Dũng mới mong điđến bờ giác ngộ một cách thông suốt và nhanh chóng.
Vậy trông quí
vị Phật tử tại gia cũng như xuất gia, trong khi học và hành sáu pháp Ba la mật,
đừng nên xem thường một pháp nào. Có như thế mới đủ phương tiện nà năng lực để
tự đọ và độ tha, đến nơi cùng tột và đúng với ý nghĩa Ba la mật.