Nhạc sĩ Đỗ Nhuận – Người nâng tầm nhạc Việt
Trong khai sinh, Đỗ Nhuận sinh ngày 10-12-1922 tại Cẩm Bình – Hải Dương nhưng theo lời kể của những người thân thì ông sinh vào tháng 5 nhuận âm lịch năm Nhâm Tuất. Bởi thế, cụ thân sinh mới đặt tên ông là Đỗ Nhuận. Cụ không biết rằng mình đã lấy tên một vị quan thượng thư phụ trách bộ lễ – phó nguyên soái Hội Tao Đàn mà vua Lê Thánh Tông là chủ soái đặt tên cho con mình. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận sau này đã trở thành người nâng tầm nhạc Việt, chả thua kém gì thượng thư Đỗ Nhuận khi xưa từng cùng Thân Nhân Trung và Lương Thế Vinh đặt ra hai bộ Đồng Văn, Nhã Nhạc cho nước Đại Việt thời ấy.
Nhạc sĩ cách mạng đầu tiên của tân nhạc
Nếu giữa những nhà thơ tiền chiến thời “Thơ Mới” xuất hiện một nhà thơ cách mạng là Tố Hữu thì giữa những nhạc sĩ tiền chiến thời kỳ đầu tân nhạc Việt Nam cũng xuất hiện một nhạc sĩ cách mạng là Đỗ Nhuận.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận Ảnh: Tư liệu
Sau khi viết tác phẩm đầu tay mang tên “Trưng Vương”, Đỗ Nhuận đã lọt vào mắt xanh ông Vũ Quý – một cán bộ Đảng hoạt động bí mật với tư cách là đoàn trưởng Hướng Đạo. Nhờ sự giác ngộ của ông Vũ Quý, Đỗ Nhuận vừa dạy tư tại Trường Hồng Bàng ở chợ Cột Đèn vừa viết những bài hát yêu nước, như “Lời cha già” luận chuyện Nguyễn Trãi – Phi Khanh.
Dưới vỏ bọc làm hương sư, Đỗ Nhuận được kết nạp vào Đảng và được đưa về làng Dương Thái gần ga Phú Thái để tuyên truyền cách mạng. Năm 19 tuổi, ông đã là tổ trưởng Đảng phụ trách phong trào Việt Minh ở huyện Kim Thành. Những năm tháng sau này, Đỗ Nhuận thường xuyên lên Hà Nội học hỏi nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát và viết những bài ca cách mạng, như “Đường lên ải Bắc” viết về khởi nghĩa Bắc Sơn. Trong một lần chỉ huy anh em rải truyền đơn và treo cờ đỏ sao vàng ở Kim Thành, ông bị bắt.
Đỗ Nhuận đã cùng bạn tù Vương Gia Khương (tác giả “Cờ Việt Minh” nổi tiếng) viết những ca khúc trong tù để hát vang trong các cuộc đấu tranh. Từ nhà tù Hải Dương, Đỗ Nhuận bị đưa lên nhà tù Hỏa Lò – Hà Nội, rồi nhà tù Sơn La. Trước khi cùng các đồng chí của mình vượt ngục Sơn La, Đỗ Nhuận đã viết hành khúc “Du kích ca” vào mùa Xuân 1945.
Không chỉ giác ngộ Đỗ Nhuận, ông Vũ Quý còn giác ngộ Văn Cao, Nguyễn Đình Thi và Xuân Oanh. Khi Đỗ Nhuận viết “Du kích ca” thì Văn Cao cũng đã viết “Tiến quân ca” và “Chiến sĩ Việt Nam”, Nguyễn Đình Thi viết “Diệt phát xít”. Còn Xuân Oanh thì đúng ngày Hà Nội khởi nghĩa đã viết ngay “19/8” hầm hập hơi thở cách mạng.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ước muốn có những bài hát trữ tình mới của thời đại mới, Đỗ Nhuận đã viết “Nhớ chiến khu” da diết và trầm vang. Bài hát được ca sĩ Thương Huyền biểu diễn ở nhiều phòng trà Hà Nội cho đến tận đêm Toàn quốc kháng chiến 19-12-1946.
Mang âm hưởng dân tộc vào nhạc cách mạng
Mang sẵn trong mình vốn liếng giàu có của âm nhạc cổ truyền, Đỗ Nhuận bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến cùng dân tộc. Thời kỳ ấy, thế giới đầy rạn vỡ sau Thế chiến II. Phong trào pop tiền rock được khởi xướng ở châu Âu nhằm hàn gắn lại những mất mát và hy vọng một hòa bình mới.
Tuy ít thông tin nhưng bằng trực cảm của một tài năng lớn, Đỗ Nhuận đã viết “Đoàn lữ nhạc” mang đầy tinh thần của phong trào đó. Rất tiếc là nó đã bị nhìn qua lăng kính hẹp hòi của chính trị duy ý chí lúc ấy nên không được cổ xúy. Ông chỉ còn cách đào sâu âm hưởng dân tộc để mang vào những sáng tạo của mình với những kết hợp nhuần nhuyễn giữa riêng tư và thời cuộc.
Câu chuyện tình cảm với bà Nguyễn Thị Bình Định đã mang đến cho ông những hứng khởi về một tình ca cách mạng mang tên “Áo mùa đông” thật đẹp đẽ và dung dị. Việc gặp gỡ cô du kích sông Thao tên Hà đã cho ông thăng hoa đạt đỉnh với trường ca hợp xướng “Du kích sông Thao” – bên cạnh “Trường ca sông Lô” của Văn Cao, “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi lai láng suốt trường kỳ kháng chiến.
Chiến dịch Tây Bắc đã giúp tài năng Đỗ Nhuận được đất để phát triển những sáng tạo của mình. Ông đã tìm đến một hành khúc thuần Việt là “Hành quân xa”. Miền đất Tây Bắc đã làm cho ông bừng ngộ về việc khai thác dân ca đồng bào thiểu số. Không chỉ có ngay những giai điệu khác thường mang âm hưởng Thái, Mông như “Anh Pan về bản”, ông còn thêm vốn liếng để sau này làm nên nhạc kịch “Cô Sao” độc đáo.
Bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ, sau hành khúc cho trận mở màn “Trên đồi Him Lam”, Đỗ Nhuận đã làm ra “Chiến thắng Điện Biên” như một khúc khải hoàn của dân tộc. Ở đấy, giai điệu Đỗ Nhuận đã hòa quyện giữa dân ca miền núi và dân ca đồng bằng qua cảm xúc tột cùng. Đến nay, giai điệu ấy vẫn là nhạc hiệu trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam cùng “Diệt phát xít” của Nguyễn Đình Thi.
Khiến thế giới phải nhìn vào và ngưỡng mộ
Hòa bình ở miền Bắc, khi thành lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Đỗ Nhuận đã được tín nhiệm ở cương vị Tổng Thư ký hội. Ông là nhạc sĩ đầu tiên thuộc thế hệ nhạc sĩ tiền chiến được cử đi học tại Nhạc viện Tchaikopsky danh tiếng của Nga. Ở đấy, ông đã được trau dồi kiến thức của một nhạc sĩ viết nhạc kịch.
Trong những năm tháng chống Mỹ, bên cạnh các ca khúc tràn đầy âm hưởng dân ca như “Vui mở đường”, “Hát mừng các cụ dân quân”, “Hoa thắm núi rừng”, “Bài ca cao xạ pháo”…, Đỗ Nhuận thật sáng láng khi viết nhạc kịch “Cô Sao”, “Người tạc tượng” vạm vỡ và mới lạ, nâng tầm nhạc Việt lên một chiều cao đáng tự hào cho thời chiến tranh oanh liệt.
Không chỉ nâng tầm nhạc Việt qua đóng góp của mình, với cương vị phụ trách Hội Nhạc sĩ Việt Nam, ông đã cùng tập thể lãnh đạo thổi bừng ngọn lửa sáng tạo trong các nhạc sĩ chuyên nghiệp và nghiệp dư để làm nên một nền âm nhạc chống Mỹ khiến cả thế giới phải nhìn vào và ngưỡng mộ. Ông còn cùng đồng nghiệp quảng bá âm nhạc Việt Nam ra thế giới qua những chuyến lưu diễn ở nhiều nước Á, Âu. Bên cạnh đấy, họ còn giúp đỡ phát triển nền âm nhạc nước bạn Lào anh em.
Sau ngày đất nước thống nhất, Đỗ Nhuận vẫn đầy nỗ lực cùng anh em nhạc sĩ hai miền Nam – Bắc tạo nên không khí âm nhạc thời thanh bình. Không chỉ âm nhạc hàn lâm, ông còn rất chú trọng âm nhạc đại chúng, phổ cập hóa nhạc nhẹ điện tử qua phong trào “Ca khúc chính trị” ở khắp cả hai miền. Bên cạnh những nhạc kịch nhỏ viết cho các địa phương, ông còn tập trung cao độ để hoàn thành vở nhạc kịch “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” qua vở kịch trùng tên của Nguyễn Đình Thi. Rồi cũng có lúc, vở nhạc kịch thứ ba của Đỗ Nhuận sẽ được trình diễn trước công chúng, dù muộn màng qua nhiều năm tháng bộn bề của đất nước.
Đỗ Nhuận đã thanh thản ra đi ở tuổi “nhân sinh thất thập” vào mùa hè 1991, để lại nhiều di sản âm nhạc cho đất nước. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996 cùng Nguyễn Xuân Khoát, Lưu Hữu Phước, Văn Cao và Hoàng Việt.
(*) Xem Báo Người Lao Động số thứ bảy từ ngày 26-8
Một lãnh đạo đầu tiên của Hội Nhạc sĩ Việt Nam
Ngày 17-12-2017 là ngày Hội Nhạc sĩ Việt Nam kỷ niệm 60 năm thành lập. 60 năm trước, bên cạnh Chủ tịch hội Nguyễn Xuân Khoát là Tổng Thư ký Đỗ Nhuận. Ông vừa là Tổng Thư ký đầu tiên của hội vừa là người lãnh đạo một nhiệm kỳ dài nhất tới 20 năm (từ 1963 đến 1983). Đấy là nhiệm kỳ II mà ông vẫn giữ vai trò Tổng Thư ký.
Sức làm việc bền bỉ và hiệu quả của ông trong việc nâng tầm nhạc Việt đã tác động trực tiếp đến sự học tập và rèn luyện của cậu con trai Đỗ Hồng Quân để có thể tiếp bước ông đi du học tại Nhạc viện TChaikopsky và tốt nghiệp bằng một tác phẩm đầy ấn tượng mang tên “Rhapsody Việt Nam”. Không chỉ trong sáng tạo, từ năm 2005, Đỗ Hồng Quân còn nối nghiệp cha ở cương vị lãnh đạo Hội Nhạc sĩ khi được tín nhiệm bầu là Tổng Thư ký (nay là Chủ tịch hội) cho đến nay. Vừa nối nghiệp lãnh đạo, Đỗ Hồng Quân cũng nối nghiệp cha ở sức sáng tạo để có thể có những tác phẩm mang tầm quốc tế như “Trổ Một”, nhạc kịch “Lá đỏ”…