Danh nhân lịch sử Việt Nam Trịnh Hoài Đức

Danh nhân lịch sử Việt Nam Trịnh Hoài Đức là ai?
Trịnh Hoài Đức hiệu là Cấn Trai, tự Chỉ Sơn, là một công thần của nhà Nguyễn, là một nhà thơ, nhà văn, một sử gia nổi tiếng của Việt Nam ở thế kỷ 18-19. Ông được vua Nguyễn ban tước “An Toàn hầu”. Với cuốn “Gia Định thành thông chí”, Trịnh Hoài Đức được xem là một trong những nhà sử liệu vĩ đại nhất cho các nghiên cứu sử học, địa lý tại miền Nam Việt Nam.
Tổ tiên của Trịnh Hoài Đức là người tỉnh Phúc Kiến – Trung Quốc, di cư sang Việt Nam từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần, sinh sống tại Huế, sau đó chuyển tới Trấn Biên. Cha ông được chúa Nguyễn Phúc Khoát cho làm An Dương Cai thủ, sau đó giữ chức Chấp canh tam trường Cai đội.
Năm 10 tuổi, ông mồ côi cha, theo mẹ vào Gia Định sinh sống. Ông theo học thầy Võ Trường Toàn ở Hòa Hưng. Khi quân Tây Sơn đánh vào Nam, ông chạy đến Chân Lạp tức Campuchia ngày nay. Năm 1788, Nguyễn Phúc Anh giành được Gia Định, đã cho mở khoa thi để chọn hiền tài. Trịnh Hoài Đức là người đỗ khoa ấy, được bổ nhiệm chức Hàn lâm chế cáo. Năm 1789, ông được bổ nhiệm chức Tri huyện ở Tân Bình, rồi làm Điền Tuấn trong coi việc khai khẩn đất đai tại Gia Định.
Tháng 3/1793, ông được bổ nhiệm làm Đông Cung Thị Giảng. Cuối năm đó, ông được cử theo Đông Cung Cảnh (tức Nguyễn Phúc Cảnh) ra trông giữ thành Diên Khánh. Năm sau, ông được thăng làm lục dinh Trấn Dinh, được bổ nhiệm chức Hộ bộ Hữu Tham tri. Năm 1801, chúa Nguyễn đem quân đi đánh Phú Xuân, ông lo việc gặt hái ở

Trịnh Hoài Đức hiệu là Cấn Trai, tự Chỉ Sơn, là một công thần của nhà Nguyễn, là một nhà thơ, nhà văn, một sử gia nổi tiếng của Việt Nam ở thế kỷ 18-19. Ông được vua Nguyễn ban tước “An Toàn hầu”. Với cuốn “Gia Định thành thông chí”, Trịnh Hoài Đức được xem là một trong những nhà sử liệu vĩ đại nhất cho các nghiên cứu sử học, địa lý tại miền Nam Việt Nam.Tổ tiên của Trịnh Hoài Đức là người tỉnh Phúc Kiến – Trung Quốc, di cư sang Việt Nam từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần, sinh sống tại Huế, sau đó chuyển tới Trấn Biên. Cha ông được chúa Nguyễn Phúc Khoát cho làm An Dương Cai thủ, sau đó giữ chức Chấp canh tam trường Cai đội.Năm 10 tuổi, ông mồ côi cha, theo mẹ vào Gia Định sinh sống. Ông theo học thầy Võ Trường Toàn ở Hòa Hưng. Khi quân Tây Sơn đánh vào Nam, ông chạy đến Chân Lạp tức Campuchia ngày nay. Năm 1788, Nguyễn Phúc Anh giành được Gia Định, đã cho mở khoa thi để chọn hiền tài. Trịnh Hoài Đức là người đỗ khoa ấy, được bổ nhiệm chức Hàn lâm chế cáo. Năm 1789, ông được bổ nhiệm chức Tri huyện ở Tân Bình, rồi làm Điền Tuấn trong coi việc khai khẩn đất đai tại Gia Định.Tháng 3/1793, ông được bổ nhiệm làm Đông Cung Thị Giảng. Cuối năm đó, ông được cử theo Đông Cung Cảnh (tức Nguyễn Phúc Cảnh) ra trông giữ thành Diên Khánh. Năm sau, ông được thăng làm lục dinh Trấn Dinh, được bổ nhiệm chức Hộ bộ Hữu Tham tri. Năm 1801, chúa Nguyễn đem quân đi đánh Phú Xuân, ông lo việc gặt hái ở Quảng Ngãi và Quảng Nam để tiếp tế lương thực cho quân đội. Tháng 5/1802, chúa Nguyễn đăng cơ tại Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long . Ông đã được phong chức Thượng thư bộ Hộ, đồng thời được cử làm Chánh sứ sang Thanh (tức Trung Quốc). Cùng đi với ông có Binh Ngô Nhân Tịnh và Hoàng Ngọc Uẩn.

Năm 1820, ông giữ quyền Tổng trấn Gia Định Thành hay Tổng trấn Nhơn. Năm 1808, ông được vua bổ nhiệm là Hiệp trấn Gia Định Thành, phụ tá cho Tống trấn là Nguyễn Văn Nhơn. Đầu năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi. Vua Minh Mạng đã triệu ông về kinh làm Lại bộ thượng thư như trước đây, kiêm cả chức quan Binh bộ Thượng thư, và Phó tổng tài Quốc sử giám, thang hiệp biện học sĩ.

Tháng 9/1821, vua Minh Mạng ngự giá ra Bắc, Trịnh Hoài Đức được theo vua. Khi về, ông đã biết hai cuốn “Khang tế lục” và “Lịch đại kỷ nguyên” để dâng lên vua. Năm 1822, ông được bổ nhiệm là Giám khảo kỳ thi ân khoa. Năm sau, ông thấy sức khỏe đã già yếu nên dâng sớ xin được lui về quê an dưỡng. Vua Minh Mạng đã sai Phạm Đăng Hưng đến thăm và muốn ông ở lại. Ông đành xin nghỉ 3 tháng để nghỉ dưỡng. Hết 3 tháng, ông ra Huế, vua Minh Mạng ban cho ông tiền và vật liệu để xây nhà ở phía cửa Đông ngoài thành.

Tháng 2/1825, ông qua đời tại Huế, hưởng thọ 61 tuổi. Vua bãi triều 3 ngày và truy tặng ông danh hiệu “Thiếu bảo Cần chánh điện Đại học sĩ”, phái Miên Hoằng hoàng tử đưa linh cữu của ông về Gia Định. Năm Tự Đức thứ 5 tức 1852, bài vị của Trịnh Hoài Đức được đưa vào miếu Trung Hưng Công Thần dẻ thờ cúng. Sau đó lại được đưa vào đền Hiền Lương vào năm 1858. Ngày 27/12/1990, khu lăng mộ của ông và người vợ chính của ông đã được nhà nước công nhận là di tích quốc gia.

Rate this post